7
CAPTAIN BUSBY
V
ào khoảng năm 71 hoặc 72, tôi thấy một người đàn ông cưỡi ngựa đội một chiếc mũ lông không tưởn. Tôi muốn vuốt ve nó như một con mèo. Mẹ bắt gặp tôi đang ngưỡng mộ chiếc mũ cao và giải thích rằng đó là mũ Busby quân đội và người đàn ông đó đang bảo vệ Nữ hoàng Anh. Khoảnh khắc này, tôi được sinh ra: tên tôi là Captain Busby và tôi bốn tuổi.
Nếu Nữ hoàng có cả một đội quân gồm những người 'Busby' để chăm sóc bà ấy, thì mẹ cũng cần một đội quân như vậy vì bà là nữ hoàng của chúng tôi. Tôi có thể nhỏ bé, nhưng tôi mạnh mẽ. Đội quân của tôi bao gồm những người lính từ ba đến bảy tuổi. Tất cả chúng tôi đều đội mũ Busby và một số người trong chúng tôi thậm chí còn cưỡi ngựa.
Có hàng trăm người trong số chúng tôi, và mỗi khi tôi cần thêm lực lượng hỗ trợ, tôi lại yêu cầu Symphony tạo ra một nhân cách khác để gia nhập hàng ngũ của chúng tôi. Nhiệm vụ rõ ràng của chúng tôi là bảo vệ mẹ. Mẹ cần được bảo vệ khỏi điều gì? Là cha. Cha dọa giết mẹ thường xuyên đến nỗi chúng tôi cần phải cảnh giác cao độ mọi lúc.
Chúng tôi theo dõi thế giới để tìm kiếm nguy hiểm, theo dõi mẹ để tìm dấu hiệu đau khổ, và theo dõi cha để tìm cờ đỏ. Từ lúc chúng tôi thức dậy vào buổi sáng cho đến lúc chúng tôi ngủ thiếp đi vào ban đêm, chúng tôi luôn trong phiên trực. Đó là một công việc mệt mỏi, nhưng phải có người làm.
GHI CHÚ TỪ BÁC SĨ GEORGE BLAIR-WEST
Siêu năng lực của Jeni - Sự rõ ràng của ký ức
Trí nhớ của Jeni là một sức mạnh đáng kinh ngạc. Thật vậy, sự rõ ràng bất ngờ trong khả năng hồi tưởng của những người mắc DID là một trong những lý do chính khiến giới chuyên môn sức khỏe tâm thần có một điểm mù lớn trong việc công nhận tình trạng này. Những ví dụ nổi tiếng nhất được tìm thấy ở những người Thiên Tài Tự Kỷ, những người có khả năng tinh thần phi thường nhưng thường chỉ trong một vài lĩnh vực giới hạn.
Những thiên tài lịch (Calendrical savants) có thể nhanh chóng tính được ngày trong tuần khi được đưa bất kỳ ngày nào trong quá khứ hoặc tương lai. Khả năng phổ biến nhất sau siêu trí nhớ là khả năng âm nhạc (gần như luôn luôn có cao độ tuyệt đối) và tính toán nhanh. Thiên tài thì hiếm, chỉ chiếm khoảng 1% số người mắc chứng tự kỷ, tương đương khoảng một trên một triệu người trong dân số nói chung.
Vấn đề đối với các bác sĩ tâm thần khi đối mặt với một bệnh nhân đưa ra mức độ hồi tưởng mà bạn vừa đọc, là dường như rất khó xảy ra việc khả năng hồi tưởng cấp độ thiên tài và sự lạm dụng nghiêm trọng (vốn bị hiểu lầm là hiếm) lại trùng hợp ở cùng một người không phải là thiên tài. Rất ít bác sĩ lâm sàng từng chứng kiến hiện tượng này trước đây, cá nhân tôi chắc chắn là chưa.
Jeni không phải là một Thiên Tài Tự Kỷ. Như tôi đã đề cập trong phần giới thiệu, Jeni đang thể hiện Trí nhớ Tự Truyện Siêu Việt (Highly Superior Autobiographical Memory - HSAM) của cô ấy. Trí nhớ tự truyện đề cập đến khả năng nhớ lại chính xác và dễ dàng vô số chi tiết về các sự kiện, bao gồm ngày tháng chính xác và thông tin phức tạp về những trải nghiệm trước đây của một người.
Tôi nhớ Jeni đã nói với tôi trong thời gian đầu chúng tôi làm việc cùng nhau rằng mọi người không tin câu chuyện của cô ấy chủ yếu vì sự rõ ràng trong khả năng hồi tưởng của cô ấy. Thật không may, hiện tượng không tin vào điều gì đó vì bạn không có kinh nghiệm về nó và không hiểu nó được minh họa rõ nét qua DID. Mặc dù tôi chưa từng chứng kiến khả năng hồi tưởng ở mức độ mà Jeni thể hiện, nhưng qua công việc của mình về chấn thương tâm lý, tôi đã rất quen thuộc với các hiện tượng trí nhớ liên quan.
Ba mươi năm trước, tôi được đào tạo về Giải Mẫn Cảm và Tái Xử Lý bằng Chuyển Động Mắt (EMDR), nói một cách đơn giản là đưa mọi người trở lại trải nghiệm đau thương của họ và cho phép họ hồi tưởng lại chúng một cách chi tiết sinh động. Tôi vẫn nhớ sự ngạc nhiên của mình, khi lần đầu tiên tôi bắt đầu áp dụng nó với bệnh nhân, ở mức độ chi tiết đáng kinh ngạc mà họ có thể mô tả xung quanh những trải nghiệm đau thương của họ.
Bệnh nhân thường ngạc nhiên như tôi, nói những câu kiểu như, "Tôi không thể tin rằng tôi có thể nhớ điều đó rõ ràng như vậy, cảm giác như tôi đang ở đó." Theo thời gian, rõ ràng là sự rõ ràng càng lớn thì kết quả của buổi trị liệu trong việc xử lý ký ức đau thương càng tốt, để nó không còn gây đau khổ nữa. Các nhà thực hành EMDR ban đầu đã nhanh chóng nhận ra rằng, mặc dù tâm trí chúng ta có một loạt các cơ chế phòng vệ vô thức để cho phép chúng ta đàn áp ký ức về những trải nghiệm đau đớn, nhưng những ký ức bị đàn áp vẫn nằm trong các hầm bê tông cốt thép tương ứng với tất cả sự sống động rực rỡ của chúng.
Hãy nghĩ về một lăng mộ Pharaoh, được chôn sâu dưới một kim tự tháp nặng nề, nhưng đầy đủ các vật dụng quý giá, nô lệ bị hiến tế, và những vật dụng trần thế quan trọng của họ, chỉ chờ được khám phá. Vấn đề về trí nhớ của Jeni không chỉ dừng lại ở sự say mê (hoặc hoài nghi) về HSAM, mà còn có hệ quả sâu sắc về mặt pháp lý. Các cáo buộc về tấn công tình dục trong quá khứ, có lẽ hơn bất kỳ loại tội phạm nào khác, hoàn toàn dựa vào trí nhớ của nạn nhân.
Các thám tử sẽ quyết định có theo đuổi vụ án hay không phần lớn dựa vào độ trung thực và độ tin cậy của nạn nhân và nhân chứng, trong khi loại tội phạm này hiếm khi có nhân chứng. Hàng trăm giờ, hoặc trong trường hợp của Jeni là hàng nghìn giờ, sẽ tiếp tục làm việc chi tiết cho các thám tử chính nếu họ đảm nhận những vụ án này, vì vậy họ không làm việc đó một cách hời hợt.
Và thứ quyết định độ trung thực và đáng tin cậy của nhân chứng hoặc nạn nhân chính là độ chính xác và nhất quán của trí nhớ người đó. Để hiểu đầy đủ những phức tạp đang diễn ra, và đặc biệt là độ tin cậy của trí nhớ, chúng ta cần đi sâu vào cách bộ não xử lý những ký ức chấn thương, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta cần hiểu cách tiềm thức của chúng ta hoạt động.
Tiềm thức có ba nhiệm vụ chính sau khi đã điều khiển các chức năng cơ bản của cơ thể, ví dụ: nhịp tim, huyết áp, điều hòa thân nhiệt... Nhiệm vụ số một khá rõ ràng, trước hết và quan trọng nhất: giữ chúng ta an toàn. Sống sót còn quan trọng hơn việc tìm thức ăn. Không có nghĩa lý gì khi đi tìm bữa tối nếu bạn sắp trở thành bữa tối của kẻ khác.
Điều này có nghĩa là các giác quan của chúng ta được điều chỉnh để nhận diện mối đe dọa, và tâm trí luôn sẵn sàng xác định và đánh giá mức độ nghiêm trọng của nó. Phần khác của an toàn là đảm bảo nguồn thực phẩm và nước uống ổn định, tức là đảm bảo sự sống còn. Khi điều này được đáp ứng, tiềm thức của chúng ta sẽ tìm kiếm sự thỏa mãn, đó là nhiệm vụ thứ hai.
Thức ăn ngon hơn, nơi nghỉ ngơi thoải mái hơn là "một ngày làm việc tốt" đối với tiềm thức. Nhiệm vụ thứ ba là học hỏi từ những trải nghiệm quan trọng trong đời và thiết lập các phản ứng tự động đã chứng minh hiệu quả nhất trong việc giải quyết các thử thách. Chúng ta xây dựng một "ngân hàng" các phản ứng có sẵn nhằm tiết kiệm năng lượng và tránh đau đớn.
Nếu ăn một loại quả nào đó khiến chúng ta bị đau bụng, chúng ta sẽ tránh nó lần sau. Phát triển một phản ứng mới cho mỗi mối đe dọa mới tốn rất nhiều năng lượng; việc sử dụng lại phản ứng đã chứng minh hiệu quả là kinh tế hơn rất nhiều. Nếu cha mẹ chúng ta thường khiển trách khi chúng ta nói về thành tích, chúng ta sẽ học cách không nói ra.
Những phản ứng tự động này sẽ được kích hoạt khi chúng ta gặp những kích thích nhắc nhớ trải nghiệm trước đó, đặc biệt là những trải nghiệm mang tính đe dọa. Cũng cần nhận ra rằng ngôn ngữ của tiềm thức không phải là suy nghĩ logic, mà là cảm xúc. Lý do là suy nghĩ logic quá chậm khi tính mạng bị đe dọa. Bộ não của chúng ta được thiết kế để nhận diện và phản ứng với nỗi sợ, trước khi chúng ta có thể phân tích bằng lý trí.
Ở con người, bất cứ khi nào có cảm xúc mạnh, suy nghĩ logic sẽ bị "đẩy xuống ghế sau". Nói ngắn gọn: nếu điều gì quan trọng, chúng ta cảm nhận trước rồi mới suy nghĩ sau, đặc biệt là khi cảm giác đó là sợ hãi trước một mối đe dọa. Vợ tôi kể rằng một hôm về nhà, mở cửa trước, và lập tức đẩy mình ngã ra phía sau cửa vừa đóng.
Cô rất bối rối về hành vi của bản thân cho đến khi nhìn thấy thứ mà tâm trí cô đã nhận ra và hành động trước, một con trăn Carpet Python lớn ngay trước mặt. Trớ trêu thay, chính cảm xúc của chúng ta cũng là một mối đe doạ. Trong một thế giới ít thú dữ, những mối đe dọa hàng đầu hiện nay của tâm trí chúng ta là cảm xúc khó chịu.
Cảm xúc tiêu cực càng mạnh, khả năng gây đau đớn hay căng thẳng càng cao, tiềm thức càng chú ý. Trong khi trải nghiệm chấn thương gây đau đớn, thì việc nhớ lại chúng cũng gây đau đớn. Mặc dù không dữ dội bằng trải nghiệm thực tế, nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt. Vì vậy, công việc của tiềm thức trong việc giữ an toàn cho chúng ta giờ tập trung vào đè nén những ký ức đau đớn.
Hãy tưởng tượng cuộc sống của bạn sẽ như thế nào nếu bộ não không có cơ chế làm dịu mọi trải nghiệm đau đớn trong đời. Hãy tưởng tượng nỗi kinh hoàng khi mỗi sáng thức dậy lại nhớ lại mọi sự kiện nhục nhã hay căng thẳng trong đời mình! Chúng ta thường xem quá trình này như điều hiển nhiên. Một khi tâm trí có thể hồi tưởng lại những trải nghiệm với mức độ chi tiết đến đau đớn, thì nó cũng cần một cơ chế mạnh mẽ không kém để kìm nén những ký ức ấy, nhằm giúp chúng ta tiếp tục sống và vận hành bình thường.
Có bốn cơ chế phòng vệ tâm lý mà vô thức sử dụng để đối phó với những ký ức đau đớn. Chúng được sắp xếp theo thứ bậc, từ mức độ yếu nhất (dùng cho những ký ức ít gây khó chịu) đến mạnh nhất (dùng cho những ký ức đe dọa nhất). Đầu tiên là Kìm nén có ý thức (Suppression), một thao tác tâm lý rất quen thuộc với tất cả chúng ta.
Ta đè nén một ký ức khi ta chủ động quyết định không nghĩ đến một vấn đề cho đến một thời điểm muộn hơn. Ví dụ: khi nhận một hóa đơn lớn vào thứ sáu, ta quyết định không nghĩ đến việc phải thanh toán nó cho đến thứ hai tuần sau, để có thể thư giãn và tận hưởng cuối tuần. Cơ chế này hiệu quả với những vấn đề nhẹ nhàng, vì ta dự định sẽ xử lý nó sau; ý định ấy giúp tâm trí tạm gác nó sang một bên trong thời gian giới hạn.
Tiếp theo là Kìm nén vô thức (Repression), khi ta đẩy một ký ức vào sâu trong vô thức đến mức nó không thể được truy cập dễ dàng như ký ức bị đè nén. Bất cứ ai từng làm điều gì khiến mình xấu hổ đều biết cảm giác này. Ngày hôm sau, ta có thể thức dậy trong cảm giác buốt nhói, nghĩ:
"Không thể tin là mình đã làm thế!" Nhưng theo thời gian, tâm trí âm thầm đẩy ký ức đó xuống vô thức, và chừng một tháng sau, ta có thể thức dậy hoàn toàn không còn nhận thức gì về sự xấu hổ ấy. Những ký ức bị kìm nén thường chỉ trồi lên khi có một tác nhân kích hoạt: một mùi hương, một bản nhạc từng vang lên lúc sự kiện xảy ra, hay đơn giản là ai đó nhắc lại chuyện cũ, ví dụ:
"Ê, chẳng phải bạn là người mà hôm đó...?" Khi ai đó an ủi chúng ta bằng câu:
"Thời gian sẽ chữa lành", thật ra điều họ mô tả chính là sự kìm nén theo thời gian. Những ký ức đau đớn ấy vẫn nằm trong "kho lưu trữ" của chúng ta; chúng không biến mất, chỉ tạm ngủ yên chờ được đánh thức. Tiếp đó là Sự phủ nhận (Denial), từ chối chấp nhận hiện thực vì nó quá đe dọa. Cơ chế này thường chỉ hiệu quả trong thời gian ngắn, bởi vì hiện thực luôn có cách áp đặt sự thật của nó.
Tôi chứng kiến cơ chế này lần đầu khi làm nội trú tại khoa hô hấp dành cho các cựu binh, nơi nhiều người vẫn giữ thói quen hút thuốc từ thời chiến. Tôi phải báo cho một bệnh nhân rằng ông ấy bị ung thư phổi, và đáng buồn hơn, bệnh đã quá nặng để điều trị. Ông chỉ còn khoảng sáu đến chín tháng để sống. Vài ngày sau, khi ông thu xếp đồ đạc để xuất viện, chúng tôi trò chuyện về những dự định sắp tới.
Rõ ràng ông không hành xử như một người đang mang bệnh nan y. Tôi đã trao đổi với bác sĩ trưởng khoa, người rất quen với phản ứng này ở bệnh nhân ung thư. Anh bảo tôi nên thông báo đầy đủ cho thân nhân gần nhất của bệnh nhân. Anh nói:
"Không cần tước bỏ sự phủ nhận của ông ấy, hiện thực sẽ làm việc đó sớm thôi. Cơ chế này giúp ông ấy tận hưởng phần thời gian quý giá còn lại." Cuối cùng, mạnh nhất là Sự phân ly (Dissociation). Đây là cơ chế mà não của Jeni buộc phải sử dụng. Nó bao gồm việc thay đổi mạnh mẽ bản sắc hoặc tính cách của một người để tránh nỗi đau cảm xúc.
Như Jeni từng mô tả rất rõ: tâm trí cô đã nghĩ ra giải pháp tối hậu, tạo ra những phần "khác" của bản thân để gánh chịu lạm dụng, rồi tách những phần ấy ra khỏi ý thức chính, giúp cô có thể sinh hoạt hằng ngày mà không bị sụp đổ hoàn toàn. Có một lý do hết sức đơn giản khiến não bộ chúng ta giữ các ký ức sang chấn trong trạng thái ẩn giấu.
Hãy nhớ rằng nhiệm vụ đầu tiên của vô thức là giữ chúng ta an toàn, và nhiệm vụ thứ ba là phát triển các phản ứng tự động cho những mối đe dọa trong tương lai. Chính vì vậy, chúng ta không thể để những ký ức đau đớn ấy hoàn toàn phai mờ. Và đây cũng là lý do những "kho chứa ký ức" kia không thể bị niêm phong tuyệt đối.
Chúng luôn rò rỉ. Chúng phải như thế, bởi để tránh các nguy cơ trong tương lai, chúng ta cần học từ những nguy cơ cũ, điều này đòi hỏi một mức độ tiếp cận nhất định đến chúng. Do đó, dù bị đẩy vào "kho lưu trữ", những ký ức này vẫn kết nối với vô thức của chúng ta. Tồn tại một đường dẫn nối ký ức với các phần trong tâm trí vô thức.
Đường dẫn này duy trì một kênh liên lạc, báo cho vô thức biết khi nào ta đang rơi vào một hoàn cảnh có thể tương tự như lúc nguy hiểm, để từ đó vô thức kích hoạt phản ứng né tránh. Điều khiến cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều bối rối là: đường dẫn này có thể truyền thông tin đến vô thức để nó thực hiện hành động né tránh mà chúng ta hoàn toàn không nhận thức được chuyện gì đang diễn ra, cũng như lý do vì sao ta lại hành động như vậy.
Sự kiện gốc vẫn bị che khuất khỏi ý thức. Ví dụ, một số bệnh nhân của tôi từng bị cưỡng bức bằng miệng khi còn nhỏ thường né tránh việc đi khám răng, hoặc cảm thấy vô cùng khó chịu với các xét nghiệm ngoáy họng gây buồn nôn, đôi khi mà không hề biết lý do tại sao. Những hành vi né tránh như vậy xuất phát từ cảm xúc, và bản thân họ thường không đặt câu hỏi gì.
Họ sử dụng những hopwj lý hoá (post-rationalisation - là một thuật ngữ có nghĩa là bạn biện minh cho hành vi hoặc cảm xúc của mình sau khi nó đã xảy ra, chứ không phải là suy nghĩ trước đó) để giải thích hành vi, chẳng hạn:
"Tôi không có tiền đi nha sĩ."
"Răng tôi vẫn ổn mà." Hành vi do cảm xúc dẫn dắt, rồi được biện minh bằng logic sau đó, là điều mà tất cả chúng ta đều làm ở một mức độ nào đó. Bất kỳ ai đang cố giảm cân nhưng vẫn quyết định ăn kem, rồi tự bào chữa bằng câu kiểu như "thứ hai mình sẽ ăn kiêng lại", đều đang là nô lệ của hành vi bị cảm xúc chi phối. Khi các nhà trị liệu tâm lý nói về việc "sống có ý thức hơn", nói một cách đơn giản, họ muốn chỉ đến việc hiểu rõ hơn những hành vi do cảm xúc vô thức điều khiển.
Những hành vi này được học từ thuở ấu thơ, và chúng sẽ tiếp tục được áp dụng một cách vô thức vào những tình huống trông có vẻ giống với quá khứ, nhưng trên thực tế lại rất khác. Một đứa trẻ bị cha mẹ thường xuyên phớt lờ khi hỏi về cảm xúc của họ, khi trưởng thành thường sẽ không chủ động khám phá cảm xúc của bạn đời.
Chúng tôi gọi mô thức học được này là "tâm động học" (psychodynamic), "psycho" nghĩa là học về mặt tâm lý, "dynamic" nghĩa là nó tiếp tục được vận dụng theo thời gian. Sự phân tách của phân ly (dissociation) tồn tại theo một phổ liên tục. Trẻ càng nhỏ, tức não càng linh hoạt, thì càng dễ sử dụng phân tách như một biện pháp phòng vệ trước sang chấn.
Hiếm khi thấy rối loạn đa nhân cách (DID) phát triển ở những trẻ bị sang chấn vào giai đoạn muộn hơn của thời thơ ấu. Mặc dù ranh giới này có phần ước lệ và khó nghiên cứu, nhưng khoảng từ tám tuổi trở đi, tâm trí dường như đã phát triển đến mức kiểu phân tách như của Jeni không còn dễ xảy ra. May mắn thay, tất cả chúng ta đều có khả năng phân tách khỏi toàn bộ trải nghiệm khi sang chấn đủ nghiêm trọng.
Điều này được ghi nhận chủ yếu trên chiến trường, nơi binh sĩ có thể trông rất bình thản, thậm chí thoải mái khi đang chết dần vì các vết thương khủng khiếp, nhưng cũng được thấy trong bối cảnh dân sự, đặc biệt là trong các tai nạn xe hơi nghiêm trọng. Ở mức độ nhẹ hơn trong phổ lâm sàng của phân ly, ta gặp những người có thể kể lại trải nghiệm bị lạm dụng kinh hoàng mà không bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào.
Ở mức trung gian, có những người đột ngột rơi vào trạng thái khổ sở dữ dội, hoặc hành xử một cách vô lý đến kinh ngạc, khi bị kích hoạt bởi thứ gì đó gợi nhớ đến sang chấn của họ. Những phần bên trong họ, phần phản ứng và phần mang nguồn gốc sang chấn, có thể rất mơ hồ, không rõ ràng. Dạng phân ly kém phân hóa này, thường thấy trong Rối loạn nhân cách ranh giới (BPD), khó điều trị hơn DID chính là vì nó thiếu ranh giới và định nghĩa rõ ràng.
Ở mức nặng nhất là chiến lược mà Jeni sử dụng: cô gần như tách rời hoàn toàn một phần tâm trí của mình. Điều mà tâm trí Jeni làm là tạo ra những "hàng rào quên lãng" (amnestic barriers) giữa các phần của cô. Đây là lý do cô có những nhân cách không hề hay biết về việc mình từng bị lạm dụng. Hãy tưởng tượng một chiếc pizza, trong đó những đường cắt giữa các miếng chính là những "hàng rào quên lãng".
Ai trong chúng ta cũng có nhiều "phần" khác nhau: một phần trẻ nhỏ lo âu, một phần trẻ nhỏ nghịch ngợm, một phần trưởng thành đi làm, một phần người bạn đời, v.v. Tất cả các "miếng pizza" ấy hợp lại thành con người hoàn chỉnh của chúng ta. Khác với hầu hết mọi người, các "phần" của Jeni, bị ngăn cách bởi những hàng rào quên lãng với mức độ dày mỏng khác nhau, theo thời gian phát triển thành các nhân cách với chiều sâu và độ phức tạp khác nhau.
Sự phát triển này diễn ra với mức độ độc lập đáng kinh ngạc, khác xa với quá trình bình thường trong đại đa số dân số. Những phần đó được gọi là "alters", một số phát triển thành nhân cách hoàn chỉnh, trong khi ở đầu kia của phổ là các "mảnh vụn" (fragments), tồn tại chỉ trong thời gian ngắn để hứng chịu một đợt lạm dụng cực độ.
Dù vậy, Jeni vẫn có một "chiếc pizza" hoàn chỉnh, giống như tất cả chúng ta. Chính những hàng rào quên lãng có tính bảo vệ, hình thành để đối phó với lạm dụng, tạo nên bản chất của DID. DID là một chiến thuật tâm trí cực kỳ tinh vi vì ba lý do: Nó cho phép người đó vận hành trong thế giới bên ngoài mà không biểu lộ những những phản ứng bình thường của con người trước sự lạm dụng (như lo âu hay trầm uất), những thứ có thể khiến người khác chú ý, đặc biệt là cha mẹ.
Nói ngắn gọn, nó giúp họ tiếp tục hòa nhập và được chấp nhận. Thứ hai. Họ phát triển một hệ thống các alter, mỗi alter mang theo những kỹ năng đối nhân xử thế riêng, có thể giúp họ an toàn hơn trong tương lai. Tùy người đang đứng trước mặt họ, họ có thể "đưa ra" nhân cách phù hợp nhất. Cuối cùng, DID cho đứa trẻ một cảm giác làm chủ mà chúng vô cùng cần khi đối mặt với kẻ gây hại.
Đứa trẻ có một "nơi để đi" trong tâm trí khi biết rằng mình đang bị đối xử sai trái, và rằng mình xứng đáng với những gì tốt đẹp hơn. Như Jeni nhiều lần kể lại, cô vẫn giữ vững ý thức đó, dù đôi khi khó tiếp cận hơn. Với tất cả những người mắc DID, pháo đài tự trọng này là nguồn gốc của sức bật và cuối cùng, là sự cứu rỗi của họ. Tôi thường được hỏi:
"Tại sao lại phải chui vào chiếc hộp Pandora đầy chấn thương tâm lý, tại sao không để yên cho nó lành lặn?" Câu hỏi này thường đến từ gia đình hoặc bạn thân. Còn bệnh nhân, đặc biệt là những người đã đủ can đảm tìm đến phòng khám của tôi, thì họ biết rõ vì sao họ ở đó: họ muốn lấy lại quyền kiểm soát cuộc đời mình. Họ đã chịu đủ việc phải sống một cuộc đời ngày càng thu hẹp, bị tâm trí vô thức điều khiển, né tránh mọi điều mà vô thức cho rằng "không dành cho họ".
Không chỉ vậy, họ không bao giờ thật sự hạnh phúc. Lý do là vì đường dẫn bắt buộc nối với ký ức sang chấn ghê gớm kia vẫn rò rỉ những cảm xúc hết sức khó chịu: tội lỗi, xấu hổ và một nỗi buồn sâu thẳm. Hiểu một cách đơn giản, nhiệm vụ của trị liệu sang chấn là giúp bệnh nhân cuối cùng có thể quay trở lại những ký ức ấy và xử lý chúng, để họ có thể buông bỏ hoàn toàn.
Khi điều này xảy ra, những hành vi né tránh bị dẫn dắt bởi cảm xúc - vốn giam giữ họ bấy lâu - sẽ tan rã. Rất khó để viết nên một cuộc đời tốt đẹp khi tâm trí vô thức liên tục cướp quyền điều khiển, chỉ để giữ cho ta "an toàn". An toàn chính là kẻ thù của một cuộc đời vĩ đại. Nền tảng của trị liệu này là giúp bệnh nhân hiểu rằng:
"Cuộc chiến đã kết thúc." Nhưng thuyết phục họ tin điều đó không hề dễ. Họ đã xây dựng trong đầu mình một pháo đài kiên cố, được củng cố theo năm tháng. Cho đến khi nhà trị liệu khiến bệnh nhân sang chấn tin rằng cuộc chiến thực sự đã qua, họ sẽ còn ngần ngại - hoàn toàn dễ hiểu - khi phải bắt đầu tháo dỡ tòa thành kiên cố ấy.
Tôi phải mất vài năm mới có thể khiến Jeni tin rằng cuộc chiến của cô đã chấm dứt. Đã có rất nhiều công việc được thực hiện để giải thoát cô khỏi sang chấn ấy, và qua việc kể lại câu chuyện của mình, Jeni đang chứng tỏ rằng cô thực sự đã chiến thắng cuộc chiến đó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co