125. BÁNH NƯỚNG ÁP CHẢO KẸP THỊT LỪA
Biên tập bởi Bà Còm
Convert và đăng ở Wiki dịch bởi "Đu #ATVNCG xong rồi nhưng vẫn suy"
LƯ NHỤC HỎA THIÊU 驴肉火烧
Đây có thể gọi là Donkey burger. Thịt lừa được hầm với hai mươi loại gia vị khác nhau, sau đó xé sợi hay băm nhỏ. Bánh kẹp rất đặc biệt, giòn bên ngoài và bên trong có nhiều lớp như vỏ bánh Patê Sô, được áp chảo trước cho phồng xốp thành nhiều lớp rồi cho vào lò nướng để lớp ngoài giòn tan, sau đó xẻ bánh ra nhét thịt lừa vào, thêm ớt xanh và ngò. Đây là món ăn nhẹ nổi tiếng của vùng Bảo Định và Hà Gian: vùng Bảo Định thì bánh hình tròn kẹp thịt lừa nóng, còn Hà Gian thì bánh hình chữ nhật kẹp thịt lừa lạnh.
Sài Cầm Hổ đi không bao lâu, Điền Khoảnh cũng phải khởi hành.
Anh chàng điều chỉnh hành trình theo lời khuyên của Sài Cầm Hổ, quyết định đến kinh thành thăm Đại sư huynh trước, thuận tiện tham gia thi Hội, có kết quả rồi mới tính xem đi về đâu.
Sư Nhạn Hành hỏi nhỏ Bùi Viễn Sơn: “Nhị sư huynh nhắm được kết quả thế nào ạ?”
Bùi Viễn Sơn nói thẳng không kiêng dè: “Khoảng tam giáp hay cùng lắm là nhị giáp mà thôi.”
Nhị giáp là đứng đắn đỗ Tiến sĩ, tam giáp được ban danh hiệu Đồng tiến sĩ, nói trắng ra chính là “Thật sự ngươi chưa tới trình độ này, nhưng ngươi cố đi được đến tận đây coi như không có công lao cũng có khổ lao, thôi thì cho ngươi giải khuyến khích!”
Nói gì thì Đồng tiến sĩ chỉ là vị trí an ủi, danh không chính ngôn không thuận, sau này sẽ khó tiến cao.
Sư Nhạn Hành lập tức sốt ruột kiểu như có người thân đi thi đại học: “Vậy nên để Nhị sư huynh chờ thêm một năm nữa hay không? Dù sao huynh ấy vẫn còn trẻ.”
Khoa cử thời này có một điểm tốt hơn thi đại học thời hiện đại, chính là thí sinh có thể tự điều chỉnh tiến trình khảo thí bất cứ lúc nào căn cứ theo hoàn cảnh và tình trạng sức khỏe của bản thân.
Ai ngờ Bùi Viễn Sơn liếc Sư Nhạn Hành một cái, ung dung phán: “Hắn không thể nào đạt được ba vị trí cao nhất.”
Ý là dẫu có nỗ lực cũng chỉ được nhị giáp.
Thí sinh đi tới nửa sau của con đường khoa cử thì gần như là tranh đua tài năng. Không phải chỉ cần ngươi nỗ lực hơn người khác dăm ba năm là có thể vượt qua cửa ải này.
Hơn nữa, thi cử chỉ là bước đầu tiên để tiến vào quan trường, bao nhiêu người cho dù thi đậu nhưng cả đời vẫn tầm thường không làm được gì.
Thử nghĩ xem, mỗi ba năm một lần thi Hội, mỗi kỳ có ba trăm tiến sĩ, thật là một mảng người đông đúc.
Ngoại trừ ba vị trí cao nhất là Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, trông chờ người có địa vị nhớ kỹ ngươi thật sự rất khó.
Nếu muốn được triều đình trọng dụng, đầu tiên phải khiến bệ hạ và các triều thần biết có một người như ngươi!
Theo cách nói của Bùi Viễn Sơn, hoặc là ngươi phải có tài cán ngút trời, hoặc có tài văn chương kinh thế, hoặc là tuổi trẻ hơn người, hoặc có dung mạo đập vào mắt người khác khiến họ khó quên.
Có ngoại hình nhưng cũng phải tính cả nội hàm.
Hai loại người đầu tiên nghe có vẻ trùng lặp, nhưng thật ra hoàn toàn khác nhau.
Xét về tài cán nghĩa là tuy người đó có dung mạo bình thường, văn chương cũng ở mức trung bình, nhưng có bộ óc nhanh nhạy thích hợp làm quan.
Mà đương kim bệ hạ chú trọng người biết cách làm việc, đương nhiên thích đề bạt quan viên như vậy.
Còn xét về tài văn chương nghĩa là ngươi có khả năng viết ra những áng văn tuyệt vời, có khả năng xuất khẩu thành thơ được lưu danh muôn thuở.
Với một tài hoa tung hoành đến thế, thật khó để thế nhân không nhớ đến ngươi.
Lúc xưa Bùi Viễn Sơn chưa từng thi Hội mà tài danh lan xa, vài vị đại lão trong triều đã sớm chú ý tới ông, phát hiện chàng trai trẻ này sở hữu một tài văn chương sắc bén không bám vào một khuôn mẫu nào, sắc bén đến độ có điểm tà khí.
Sau đó thấy thằng nhóc kia lại khá đẹp trai, vì thế. . .
Dẫu chàng trai trẻ này không phải mầm giống làm quan, văn chương thi Đình thì chạy đề, nhưng giữa những hàng chữ đều nổi bật sự tài tình, vì thế được xếp vào vị trí đầu của nhị giáp.
Hỡi ôi, sau đó các đại lão dần dần phát hiện, vị hậu bối này xác thật có tài, cũng không bám vào một khuôn mẫu, khổ nỗi quá lập dị. . .
Không thể chịu đựng được!
Vừa yêu vừa hận.
Ngoài ra còn hai loại tiến sĩ có tuổi trẻ hoặc có dung mạo, đương nhiên không cần nhiều lời, liếc mắt một cái là thấy ngay.
Người xưa có câu “Tam thập thiếu tiến sĩ”.
Nghĩa là nếu ngươi có thể đăng tên bảng vàng ở tuổi ba mươi thì vẫn còn trẻ trung đầy hứa hẹn.
Mà đối với Điền Khoảnh: tài cán, tài văn chương, thậm chí là dung mạo đều không có chỗ nào hơn người.
Nhưng anh chàng có tuổi trẻ!
Nếu anh chàng thuận lợi trúng tuyển trong kỳ thi Hội, chỉ cần có thể chen vào bảng nhị giáp coi như đã thành công!
Một tiến sĩ nhị giáp hai mươi ba tuổi, dẫu không phải là người trẻ nhất thì chắc chắn là một trong những người trẻ nhất!
Hơn nữa Điền Khoảnh còn có sư phụ Bùi Viễn Sơn và Đại sư huynh đều là Tiến sĩ, bệ hạ và bá quan văn võ tất nhiên liên tưởng đến một câu chuyện hay về ba người trong sư môn làm quan cùng triều sẽ được thế nhân ca tụng, do đó muốn quên anh chàng mập mạp này cũng khó.
À quên, hiện tại không thể gọi người ta là béo nữa rồi, chỉ có thể coi là đầy đặn.
Sư Nhạn Hành bừng tỉnh đại ngộ.
Hóa ra, nhìn như không có sự sắp xếp nào lại chính là sự sắp xếp tốt nhất.
“Sao trò không hỏi về Hữu Độ?”
Bùi Viễn Sơn đột nhiên tung ra một câu.
“Ơ?” Sư Nhạn Hành ngẩn ra, đáp theo bản năng, “Huynh ấy chỉ mới là tú tài. . .”
Ngước lên lại thấy trong mắt Bùi Viễn Sơn mang ý cười, thế nên đây là sự trêu chọc hiếm thấy.
Sư Nhạn Hành không hiểu sao mặt mình lại nóng lên, phẩy tay chạy lẹ.
Ôi trời, thật không ngờ làm sư phụ mà còn chơi kiểu này!
Ông già nhiều chuyện!
Điền Khoảnh không có bất cứ thắc mắc gì đối với sự sắp xếp của Bùi Viễn Sơn.
Theo suy nghĩ của anh ta, nhà họ Điền suốt tám đời chẳng có một kẻ sĩ chân chính, làm sao biết được nên theo đuổi con đường làm quan như thế nào? Khi nào nên theo đuổi?
“Dù sao sư phụ sẽ không bao giờ hại ta!”
Sư phụ nói thế nào, ta cứ việc làm y như vậy.
Sư Nhạn Hành xúc động thốt lên một câu từ đáy lòng:
“Thật là đồ đệ ngoan của sư phụ!”
Trong số bốn đệ tử, dường như Điền Khoảnh là người ỷ lại nhiều nhất vào Bùi Viễn Sơn và Cung phu nhân. Khi ông thầy bị cách chức, Điền Khoảnh là người đầu tiên vượt ngàn dặm xa xôi chạy tới làm bạn.
Sư Nhạn Hành vỗ vỗ bờ vai dày dặn hơn người bình thường của Điền Khoảnh: “Nhị sư huynh cũng sắp khởi hành, ta làm cho huynh mẻ sủi cảo tiễn chân nhé?”
Ai ngờ Điền Khoảnh vừa nghe xong là mặt mày nhăn nhó, ôm đầu rên rỉ:
“Lại ăn sủi cảo nữa hả?! Ta sắp biến thành cái sủi cảo rồi nè!”
Người phương Bắc sao lạ thế nhỉ? Bất cứ dịp nào cũng phải ăn sủi cảo?
Trong nhà có khách, làm mẻ sủi cảo thịt trứng.
Con nít ăn sinh nhật, làm mẻ sủi cảo thịt trứng.
Người già mừng thọ, ngoài chén mì trường thọ thì nhất định phải có chén sủi cảo.
Ăn tết, làm chén sủi cảo. . .
Thật giống như mặc kệ là chuyện gì, kết quả cuối cùng đều là một chén sủi cảo!
Sư Nhạn Hành nghiêm trang khiển trách: “Có sủi cảo ăn mà còn chê! Để xem đến khi huynh bị đói thì có thấy quý hay không?”
Điền Khoảnh đúng lý hợp tình khoanh tay ôm lấy thân hình mập mạp: “Nhà ta mấy thế hệ kiếm ra nhiều tiền như vậy, tại sao để ta chịu đói?”
Sư Nhạn Hành: “. . .”
Mẹ kiếp, rất có lý, mình không tìm được lời phản bác!
“Ây da, thôi được thôi được! Để ta làm món lư nhục hỏa thiêu vậy!”
Thịt rồng trên trời, thịt lừa dưới đất.
Dĩ nhiên Sư Nhạn Hành chưa từng được nếm thịt rồng, nhưng thịt lừa quả thật ăn rất ngon, là loại ngon khó có thể diễn tả bằng lời.
Thịt lừa dễ mua hơn thịt bò nhiều, trên phố có một cửa hàng chuyên bán thịt lừa.
Thịt lừa mua về cho vào nồi hầm liu riu, trong khi chờ đợi thì Sư Nhạn Hành đi làm bánh nướng áp chảo.
Đã ăn thịt lừa mà không có bánh nướng áp chảo để kẹp vào thì thật hết nói nổi.
Nướng loại bánh áp chảo giòn xốp này, khi nhào bột phải cho vào chút muối tiêu, nhào bột thật mịn, nướng vàng ươm xốp giòn, cắn một miếng vụn bánh rớt ra.
Dẫu ăn bánh không vẫn rất ngon rồi.
Sư Nhạn Hành còn đặc biệt về tiệm mang đến mấy bao giấy dầu để dựng bánh kẹp thịt, làm cho mỗi người một cái cầm ăn.
Thịt lừa đã kho thật thấm được băm ra, bên trong trộn thêm chút thịt đông. Món này nên ăn ngay lúc bánh nướng còn nóng hổi, thịt đông hóa thành một bọng nước thịt, thơm nức.
Ngon vô cùng.
Cắn vào một miếng, dẫu người có tài văn chương xuất chúng đến đâu chăng nữa thì chắc hẳn trong đầu chỉ còn nghĩ được một chữ: Thơm.
Nhưng mùi thơm này khác hoàn toàn với mùi thơm thịt heo thịt bò tầm thường, hơn hẳn mùi thơm hoa quả. Đây là hương vị phong phú của thịt lừa béo mà không ngán, nạc mà không khô, hợp với một chút màu vàng nhạt trong suốt của thịt đông, đặc biệt vô cùng.
Sau khi đến huyện Ngũ Công, Cung phu nhân thực sự đã học ăn những món mà luôn bị cho là quá bình dân. Hiện giờ, một quý bà đài trang cũng bắt chước ngồi co chân trên sạp cầm bánh kẹp thịt mà gặm.
Song cũng phải công nhận, người đẹp thì ở hoàn cảnh nào cũng đẹp, dẫu gặm bánh kẹp thịt cũng đẹp hơn người khác.
Có lẽ mang cảm xúc của người sắp đi xa, hôm nay Điền Khoảnh ăn kiểu như không có ngày mai, chỉ chốc lát sau là giỏ tre trước mặt đã trống không.
Anh chàng lại làm luôn một chén lớn súp cay Hà Nam, cảm thấy mỹ mãn.
“Chậc, tiếc quá tiểu sư đệ không được ăn món lư nhục hỏa thiêu này!”
Sư Nhạn Hành nói: “Làm đồ ăn tiễn chân cho huynh ấy dễ hơn Nhị sư huynh nhiều.”
Sài Cầm Hổ là loại thực khách được đầu bếp quý nhất, cái gì cũng thích ăn, không hề kén chọn, đặc biệt thích ăn mì.
Có đôi khi Sư Nhạn Hành lười bày ra làm lích kích, nấu đại một nồi mì suông, sau đó ra tiệm lấy một ít thịt kho đồ chiên gì đó bày lên mặt, vậy là anh chàng có thể vui vẻ ăn sì sụp hết ba tô lớn.
Sau này Sư Nhạn Hành nấu súp cay Hà Nam, dùng hồ tiêu làm gia vị, bên trong bỏ thêm đậu hủ, kim châm, miến, thịt bò, v.v. . . Thành phẩm trông như nồi lẩu thập cẩm, ăn kèm với bánh quẩy vàng óng nóng hổi mới chiên, anh chàng sướng như điên.
“Nghĩ cũng lạ, tuy trước kia ta chưa từng ăn món này nhưng lại cảm thấy hương vị quen thuộc một cách khó tả, giống như đây là món ăn của quê ta.”
Lúc ấy Sư Nhạn Hành bật cười.
Thật đúng là thời đại khác nhau nhưng văn hóa ẩm thực vẫn giống nhau.
Đời sau, súp cay Hà Nam với bánh quẩy chính là món ăn đặc sắc của vùng Quan Trung chứ còn gì.
“Sư phụ, sớm muộn gì cũng có một ngày ngài sẽ rời nơi này phải không?”
Sư Nhạn Hành đột nhiên cảm nhận được một nỗi buồn ly biệt man mác.
Bùi Viễn Sơn thong thả gom vụn bánh lại trong lòng bàn tay rồi bỏ hết vào miệng, ung dung đáp: “Ai biết được?”
Một khi vào quan trường, khi nào đi, đi hướng nào, đều không phải do mình quyết định.
Sư Nhạn Hành đưa cho ông cái bánh nữa, cười nói: “Ngài cứ phải ngồi đợi ở đây, thật sự thiệt thòi quá!”
Huyện Ngũ Công quá nhỏ, ngay cả nàng là người buôn bán mà còn thường xuyên cảm thấy chật chội, huống chi Bùi Viễn Sơn đã từng trải nghiệm núi cao biển rộng?
Sư Nhạn Hành cũng thường xuyên trò chuyện riêng với Cung phu nhân, biết được sau khi bị cách chức, Bùi Viễn Sơn đặc biệt thích viết thơ làm từ.
“Tuy ông ấy không nói, nhưng ta có thể nhìn ra được.”
Sư Nhạn Hành hiểu.
Từ xưa đến nay, thời kỳ đỉnh cao của sự sáng tác thơ văn thường xảy ra khi các văn nhân chán nản thất bại, ví như trường hợp kinh điển nhất là bị cách chức lưu đày.
Bởi vì không có nơi nào để bày tỏ sự chán chường nên đành trút hết vào thi thư.
Mỗi khi đến lúc này, Cung phu nhân luôn khẽ thở dài.
Bà cũng không thể kết luận vụ bị cách chức rốt cuộc là chuyện tốt hay xấu.
Tài hoa của Bùi Viễn Sơn thực ra được thể hiện nhiều hơn trong phương diện sáng tác văn học; hơn nữa, thuần túy dựa vào cá tính và cách hành xử, có lẽ ông không thích hợp làm quan.
Tuy nhiên, bị cách chức mang đến sự phủ định trầm trọng cả bên trong và bên ngoài, khiến Bùi Viễn Sơn lúc nào cũng nhấm nháp nỗi mất mát cùng thất chí.
Đây là điều mà Sư Nhạn Hành không thể giúp gì được.
Ngày mười sáu tháng chín, Điền Khoảnh rời huyện Ngũ Công.
Ngày hai mươi tháng chín, Sư Nhạn Hành liên hợp với Vương Giang và những người khác chính thức khai trương Khu Ẩm Thực ở Lịch Châu.
Tô Bắc Hải thật sự không tệ, nhận tiền là làm việc ngay.
Chỉ xét riêng điểm này thì quả thực ông ta có trách nhiệm hơn Tôn Lương Tài rất nhiều.
Trước khi đi, ông ta giao cho Sư Nhạn Hành một phong thư mật, bảo bọn họ đến tìm Chu Bân Chu đại nhân, Thông phán của Lịch Châu.
Thông phán có phẩm hàm thấp hơn Tri châu một bậc rưỡi, nhưng cùng trực thuộc trung ương, thậm chí quyền lực thực tế cũng không kém hơn Tri châu bao nhiêu.
Bởi vì Thông phán chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hoàng đế, gần như thực hiện quyền giám sát ở một mức độ nhất định. So với Tri huyện một tay che trời, cách tổ chức hành chính của châu phủ và thậm chí cao hơn nữa ở triều Đại Lộc chính là để hai bên hoặc nhiều bên kiềm chế lẫn nhau.
Ngay khi nghe tin họ nên tìm thẳng Chu Bân, Sư Nhạn Hành chợt hiểu ra:
Tô Bắc Hải có lẽ không thể đi tiểu cùng cái bô với Tri châu Đỗ Tuyền!
Đây là tin tốt, nhưng đồng thời cũng là tin xấu.
Tin tốt là, nha môn châu thành không phải bền chắc như thép, Sư Nhạn Hành hoàn toàn có thể chia ra mà phá, hốt thuốc đúng bệnh.
Giả sử trị không được Đỗ Tuyền thì thậm chí có thể bỏ qua.
Tin xấu chính là, mỗi đại nhân là một đỉnh núi. Nếu từng người mang ý xấu thì công việc kinh doanh của bọn họ sẽ gặp khó khăn gấp bội, cần phải lo liệu chu đáo mọi mặt.
Hơn nữa, một khi không cẩn thận thì rất có khả năng trở thành công cụ cho cuộc tranh giành quyền lực.
Nhưng bất luận thế nào, ở giai đoạn hiện tại, Sư Nhạn Hành và đám thương gia không đủ tư cách để chọn lựa người chống lưng.
Người ta ban cho cái gì đều phải giơ hai tay đón nhận.
Không những đón nhận mà còn phải đón nhận thật thỏa đáng, làm người ta cảm thấy hài lòng.
Sư Nhạn Hành tìm Vương Giang, cùng với các đối tác trong Khu Ẩm Thực lại chuẩn bị một phần quà hậu hĩnh, sau đó nộp lên kèm với phong thư mật của Tô Bắc Hải.
Tô Bắc Hải thu phân nửa cổ phần khẳng định sẽ chia cho Chu Bân một phần, nhưng mặc kệ chia nhiều hay ít thì đấy đều coi như quà của cá nhân Tô Bắc Hải, đám người Sư Nhạn Hành bắt buộc phải tặng riêng.
Có đối tác thiển cận khó tránh khỏi xót của: “Còn chưa đứng đắn khai trương mà đã phải rải bạc quá nhiều, thật là rải xuống nước cũng nghe được tiếng vang!”
Không cần Sư Nhạn Hành lên tiếng, Vương Giang đã lạnh mặt.
“Muốn làm hay không? Không muốn thì cút đi!”
Đừng tưởng bỏ ra số tiền này là ngon, nếu trước đó không có Vương Giang ông đây và Sư Nhạn Hành ra mặt, dẫu ngươi bỏ ra gấp mười lần hay gấp trăm lần số bạc đó thì Tô đại nhân sẽ không viết phong thư này, Thông phán đại nhân chả thèm biết ngươi là ai!
Sự khác biệt giữa quan chức và thương nhân giống như sự trừng phạt của ông trời, dù có muốn đưa bạc cũng không biết cách nào.
Người nọ ấp úng nói không nên lời.
Thư giới thiệu của Tô Bắc Hải cộng thêm quà cáp hậu hĩnh hữu hiệu thấy rõ, chuyên trị những căn bệnh nan y khi bị tắc đường.
Sáng sớm hôm sau đã có người trong nha môn đến tìm họ.
Sư Nhạn Hành và Vương Giang đều thức dậy sớm trong căn nhà thuê của từng người, chuẩn bị sẵn sàng chờ được gọi, không ngờ tin tức tới nhanh đến vậy.
Sư Nhạn Hành vội vàng dùng cơm sáng, mặc đồ xong là đi ngay.
Hôm nay nàng phải gặp quan nên chọn bộ váy màu khói và áo bông màu tím nhạt với hoa văn chìm, đeo đôi khuyên tai trân châu trắng, trên đầu chỉ cài cây trâm ngọc, ngoài ra không còn bất kỳ trang sức nào khác, vừa có vẻ trang trọng mà không phô trương.
Bởi sợ phiền phức nên nàng không dám ăn đồ lỏng, chỉ nhấp chút xíu nước hầm xương để đưa xuống hai quả trứng luộc, cũng không dám ăn gì khác.
Sợ đi vệ sinh.
Ngoài ra trong tay áo bên trái nhét một gói thịt khô, trong tay áo bên phải là một túi mơ chua, đói bụng thì ăn thịt khô, khát thì ngậm mơ chua.
Xe ngựa dừng lại ở cửa sau nha môn châu thành, Sư Nhạn Hành xuống xe, vừa ngước lên là thấy Vương Giang phía đối diện.
Nhắc đến cũng buồn cười, năm ngoái hai người còn đấu nhau như gà chọi, hận không thể ngươi chết ta sống, nhưng hôm nay lại thành châu chấu đậu trên cùng sợi dây.
Hai người im lặng nhanh chóng trao đổi ánh mắt, cùng tiến lên đưa gã sai vặt giấy hẹn, sau đó được đưa vào gian phòng của người gác cổng ngồi chờ.
Nói là chờ chứ dường như bị bỏ quên hoàn toàn, cứ ngồi đó suốt từ lúc mặt trời mọc đến buổi trưa.
Trong khoảng thời gian đó thật ra cũng có người đem trà vào, nhưng cả Sư Nhạn Hành và Vương Giang đều không dám uống.
Lỡ như ngươi đang uống trà, có người bước vào thì sao?
Lỡ như uống xong rồi, muốn đi nhà vệ sinh thì sao?
Thậm chí lỡ như có người đang âm thầm quan sát từng cử động của ngươi, trong khi ngươi uống trà có một động tác hay thần thái nào đó chọc đối phương không vui thì sao?
Mãi đến khi Sư Nhạn Hành ngửi được mùi đồ ăn thoang thoảng từ nơi xa bay tới, rốt cuộc mới có nha dịch cấp thấp cười tủm tỉm lại đây hỏi: “Hai vị chưởng quầy của huyện Ngũ Công có ở đây không? Đại nhân đang chờ!”
Sư Nhạn Hành và Vương Giang vội đứng lên: “Có đây.”
Người nọ không e dè quan sát bọn họ vài lần, đặt trọng tâm vào Sư Nhạn Hành, sau đó không nói gì cả, chỉ vẫy tay kêu hai người họ đi theo.
Chưa gặp được Chu Bân là điều trong dự kiến, dù gì cũng đường đường là Thông phán của một châu, đâu thể tùy tiện gặp bất cứ người nào.
Nhưng tiếp đãi bọn họ chính là Tư hộ tòng quân, chuyên cai quản thuế má, vô cùng hợp lý.
Lúc ấy Sư Nhạn Hành âm thầm thở phào nhẹ nhõm:
Thành công rồi!
Vị Tư hộ tòng quân rất sảng khoái hỗ trợ làm thủ tục, nhìn Sư Nhạn Hành cười khen: “Thật đúng là 'Cân quắc bất nhượng tu mi'!”
Sư Nhạn Hành thấy nụ cười của ông ta khá chân thành, đoán được đây là đại diện cho Chu Bân, nàng càng tỏ vẻ cung kính.
“Không dám, không dám.”
Những người này chẳng bao giờ có một câu dư thừa.
Vậy là Chu Bân đã đề cập đến nàng!
Nói cách khác, Tô Bắc Hải đã đề cập với Chu Bân về nàng, có lẽ còn thòng thêm quan hệ của nàng và Bùi Viễn Sơn.
Mà quan hệ trong quan trường rất rắc rối phức tạp, nếu Tô Bắc Hải dám đề cập tới, vậy là chứng minh Chu Bân và Bùi Viễn Sơn không phải kẻ thù, ít nhất không phải là bên thù địch với phe phái của ông ta!
Người nọ xua xua tay, đẩy thẻ bài lại đây: “Đã không còn sớm, ta cũng bận rộn, hai ngươi đi được rồi!”
Sư Nhạn Hành và Vương Giang đều nói lời cảm tạ, kín đáo đặt lên bàn một phong bì.
Trong phong bì có một tờ ngân phiếu và một thẻ hội viên, thẻ hội viên có thể dùng thay tiền.
“Nếu ngài có rảnh, chúng tôi rất hân hạnh được ngài ghé qua.”
Đối phương làm như không nhìn thấy phong bì, gật gật đầu, ra hiệu cho họ rời phòng.
Sư Nhạn Hành chậm rãi lui ra, khi quay người đóng cửa liếc nhanh về phía bàn: Phong bì kia đã không còn ở đó.
Hai ngày sau, Khu Ẩm Thực chính thức khai trương, chiêng trống vang trời, pháo nổ tưng bừng, vô cùng náo nhiệt.
Vương Giang còn đặc biệt thuê một đội lân nổi tiếng nhất nơi này, biểu diễn rộn ràng cả nửa ngày.
Thành Lịch Châu buôn bán tấp nập, hầu hết cửa hiệu ở vị trí tốt đã được thuê mười mấy năm rồi, Khu Ẩm Thực muốn chen chân vào cũng không được.
Cuối cùng, thật vất vả mới tìm được một nhà hàng ba tầng ở vành đai thứ ba về phía tây.
Tuy không phải đoạn đường sầm uất nhất nhưng được cái xung quanh có rất nhiều trường tư thục, lại gần giao lộ lớn đi thông đến chợ phía tây, có rất nhiều khách hàng bên ngoài lui tới, đặc biệt thích hợp làm quảng cáo.
Sư Nhạn Hành rất hài lòng.
Khu Ẩm Thực chỉ là bàn đạp, hợp tác với người khác chung quy không phải kế sách lâu dài, nàng muốn trong thời gian ngắn nhất nâng cao mức độ nổi tiếng của Sư Gia Hảo Vị, sau đó tách ra làm một mình.
Sư Gia Hảo Vị và Tụ Vân Lâu là hai đơn vị đứng ra khởi xướng và tổ chức nên nhận hai cổ phần lớn nhất, cũng chiếm vị trí tốt nhất trong Khu Ẩm Thực.
Sư Gia Hảo Vị chuyên về món kho, bánh ngọt kiểu Âu Tây cùng các loại món hấp, ngoài ra còn bán thêm vại bột kho.
Đây là kết quả sau khi Sư Nhạn Hành đã suy nghĩ rất cặn kẽ.
Món kho và bánh ngọt kiểu Âu Tây khỏi cần phải bàn, đã sớm là hai món chủ lực của Sư Gia Hảo Vị, kiếm tiền vô số.
Còn món hấp cũng có thể dùng như một mánh lới nhắm vào mục đích ăn uống dưỡng sinh. Chúng dễ dàng chuẩn bị trước và có thể bán với giá cao. Đây là dòng sản phẩm thứ ba mà Sư Nhạn Hành muốn quảng bá sau các món kho và bánh ngọt kiểu Âu Tây.
Về phần bột kho, Sư Nhạn Hành tính toán tự mình đảm nhiệm vai trò nhà phân phối ở Lịch Châu, bán lẻ kiêm bán sỉ, mới đầu là bán ra thành phẩm rồi dần dần mở rộng đến thị trường gia vị.
Tam Muội theo nàng đến Lịch Châu giành thiên hạ.
Sư Nhạn Hành cổ vũ cô bé học nhiều xem nhiều hỏi nhiều. Sau đó Tam Muội thắc mắc vì sao lại muốn bán bột kho.
“Nếu mọi người đều mua bột kho về làm, chẳng phải sẽ không ai cần mua món kho của chúng ta?”
Sư Nhạn Hành cười: “Không đâu.”
Nếu tính lợi nhuận theo đơn vị thì bán bột kho chắc chắn không cao bằng bán thịt kho, nhưng quy trình làm ra thành phẩm ít hơn và vốn quay vòng rất nhanh, gần giống như mua gia vị rồi qua tay đầu cơ trục lợi. Tỷ suất lợi nhuận trên một đơn vị thời gian cao đến mức đáng sợ.
Hơn nữa, toàn bộ quy trình sản xuất chỉ chiếm một không gian nhỏ, hoàn toàn không cần quản lý gian hàng độc lập, miễn tạo được chiêu bài nổi tiếng là đủ.
“Ngoài ra, mua bột kho xong còn phải mua các loại nguyên liệu rồi bắt tay vào tự nấu. Quy trình nấu nướng và dọn dẹp vừa tốn thời gian vừa tốn công sức, hương vị chưa chắc ngon bằng mua ở tiệm chúng ta.”
Giống như gia vị nấu lẩu xuất hiện tràn lan ở các siêu thị lớn thời hiện đại, nhưng chẳng phải các tiệm bán lẩu vẫn bùng nổ đấy sao?
Bán bột kho nhắm vào nhóm người tiêu dùng trung lưu và bình dân, họ có nhiều thời gian nhưng tài chính không dư dả; trong khi những người tiêu dùng cao cấp thiếu thời gian nhưng không thiếu tiền, họ vẫn sẽ lựa chọn món kho thành phẩm.
Tam Muội hiểu rồi: “Hóa ra chưởng quầy muốn tung một lưới gom hết tất cả!”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co