Truyen3h.Co

Toái Ngọc Đầu Châu

Chương 11 - 20

huynieeeea

Chương 11: Sao đêm hôm khuya khoắt lại đi dạo?

Edit: Dú

Chương 11: Sao đêm hôm khuya khoắt lại đi dạo?

Cửa hàng Ngọc Tiêu Ký là cửa hàng to nhất nằm trên đường Nghênh Xuân, hai tầng, hậu đường có kho tổng và phòng cơ khí với những dụng cụ hoàn thiện nhất. Còn tòa nhà nhỏ ngay bên cạnh là một đồn công an, tầng hai ngay sát văn phòng cảnh sát, rất đỗi an toàn.

Buổi trưa Đinh Hán Bạch ăn ở Truy Phượng Lâu đối diện, lãnh đạo viện bảo tàng mời khách để cảm ơn vụ hắn điêu khắc tấm phù điêu, ăn xong ra khỏi nhà hàng thì loáng thoáng thấy Đinh Duyên Thọ dẫn Kỷ Thận Ngữ vào Ngọc Tiêu Ký.

Hắn xã giao xong rồi đi qua, ngoài sảnh chỉ có mỗi một người làm thuê ở đó, đi vào phòng làm việc ở hậu đường thì thấy Đinh Duyên Thọ đang tự tay lau máy móc. "Bố." Hắn gọi, bước một bước đứng dựa vào khung cửa, "Không phải hôm nay bố đi cửa hàng hai à?"

Đinh Duyên Thọ nói: "Có chú hai với Nhĩ Hòa ở đó nên không cần phải thêm người làm gì."

Lúc nói đôi câu này, Đinh Hán Bạch chú ý đến thùng giấy trên bàn, các lớp giấy báo bọc trong đó, khi mở ra là viên đá Phù Dung nọ. Hắn như cái kíp nổ, nhoáng cái đã nổ banh chành: "Sao bố lại đụng vào đá của con?! Kỷ Trân Châu đâu! Con cho nó trông cơ mà, đồ chó săn!"

Vừa dứt lời, Kỷ Thận Ngữ chạy vào: "Ai gọi tên con vậy?"

Khi thấy là Đinh Hán Bạch, cậu mới giải thích: "Sư ca à, sư phụ bảo em mang qua đánh bóng, chứ không định làm gì khác đâu." Khăn tay da hươu trong tay đã tẩm ướt, cậu lau đá Phù Dung đã khắc tỉ mỉ qua một lần rồi đưa sang hỏi Đinh Duyên Thọ, "Sư phụ ơi, có phải bọn con sẽ tự làm phần của mình không ạ?"

Đinh Duyên Thọ cũng lau xong máy đánh bóng: "Con đánh nửa của nó, nó đánh nửa của con."

Đánh bóng là quy trình cuối cùng trong chạm khắc ngọc, nếu bước cuối cùng này không làm tốt thì tương đương với việc kiếm củi ba năm thiêu một giờ. Việc sửa bản thảo cho viên đá Phù Dung này đã tốn một ngày, đi nét ra phôi tốn thêm ngày nữa, điêu khắc tỉ mỉ lại mất ăn mất ngủ, mệt cả thể xác lẫn tinh thần, một khi đã hoàn thành việc đánh bóng thì trận luận bàn này mới có kết quả được.

Những quy trình trước đều là người nào tự phô tài cán người nấy, nhưng giờ Đinh Duyên Thọ lại bảo bọn cậu đánh bóng cho phần nhau.

Đinh Hán Bạch ỉu xìu: "Bố định nhìn bọn con chơi khăm nhau hay là hợp tác vui vẻ đấy?"

Đinh Duyên Thọ cũng không vui: "Vậy để xem quan điểm của hai đứa thế nào."

Đá không thể bổ thành hai nửa, vậy nên hai bọn cậu đành phải chia lượt trước lượt sau. Kỷ Thận Ngữ tiên phong đánh nửa của Đinh Hán Bạch trước, tập trung cao độ, phớt lờ hai bố con đứng ngay sau lưng, hoàn thành một cách rất đỗi chuyên chú.

Sở dĩ cậu chuyên chú, không phải vì sợ trễ nải khiến Đinh Hán Bạch bực mình mà đơn thuần là vì rất thích viên đá này, chỉ muốn gắng sức đạt đến mức hoàn hảo mà thôi.

Sau khi xong việc thì giao sang, Kỷ Thận Ngữ bỗng thấy lo lắng, cậu có thể dốc lòng đánh bóng cho đối phương, nhưng Đinh Hán Bạch thì sao?

Cậu khắc dựa theo phương pháp của Kỷ Phương Hứa, nếu Đinh Hán Bạch cố ý chơi xỏ thì tất nhiên cảm giác bắt sáng của thành phẩm sẽ giảm sút tột bậc.

Kỷ Thận Ngữ đứng một bên không nhúc nhích, cụp mắt nhìn chằm chằm vào "Ngân Hà mênh mông", máy đã bật, cậu duỗi ngón trỏ chọt lên đầu vai Đinh Hán Bạch. Đinh Hán Bạch ngước mặt nhìn cậu: "Có chuyện gì à?"

Cậu không tiện nói rõ: "... Đừng chệch tay nhé."

Đinh Hán Bạch thấy buồn cười, bèn không thèm để ý nữa, vừa định bắt đầu làm thì thấy vai mình chùng xuống. Vẫn là ngón trỏ mảnh khảnh nọ ghì hắn, không có vết chai nhưng lại đầy sức mạnh.

Hắn lại ngước mặt lên: "Cậu thích vai anh à?"

Kỷ Thận Ngữ nghẹn lời mãi mới nói: "... Nhất định đừng chệch tay nhé."

Đinh Hán Bạch hơi bực mình, khua tay Kỷ Thận Ngữ ra, lúc bấy giờ Đinh Duyên Thọ mới hả hê nói với từ phía sau: "Em nó không yên lòng vì mày đấy, sợ mày phá hết công sức của nó."

"Sư phụ..." Kỷ Thận Ngữ vội nháy mắt ra hiệu với Đinh Duyên Thọ, lại nhìn sang Đinh Hán Bạch thì y như rằng người nọ đã trừng mắt lạnh tanh rồi. Đúng là chẳng dễ chọc tí nào mà, cậu bèn xoay người đi dọn nhà kho, kết quả thế nào cứ phó mặc cho số phận đi.

Khách đến rồi lại đi, chim khách bay đi rồi bay về, cứ lặp lại như vậy.

Kỷ Thận Ngữ đứng dưới mái hiên hậu đường, đợi tiếng máy móc trong phòng vừa dứt là ló đầu vào nhìn thì trông thấy Đinh Hán Bạch đang dùng bút lông để phủi bụi, mặt bình tĩnh, môi mỏng mím lại, không hề trưng vẻ hưng phấn khi đã làm xong việc.

Lẽ nào không đánh bóng tốt thật? Cậu lo lắng.

Đinh Hán Bạch ngồi mãi lâu không đứng dậy, chỉ nhìn đăm đăm vào đá Phù Dung không biết đang nghĩ gì, nghĩ đủ rồi, nhìn đủ rồi, bèn ra khỏi phòng đi rửa tay mà không hé răng một câu. Kỷ Thận Ngữ như chú mèo hoang lẩn vào nhà, rón rén vào kiểm tra, vừa nhìn đã cười toe toét.

"Sư phụ ơi!" Cậu dâng vật quý cho Đinh Duyên Thọ "Cái này tên là "Ngân Hà mênh mông", con người và chim muông đều có cả, bốn đường dao của người được thay bằng dải ngân hà... Sư ca đánh bóng tuyệt quá."

Cậu lấy bụng tiểu nhân do lòng quân tử, có hơi xấu hổ.

Đinh Duyên Thọ đeo kính lên để nhìn kĩ rồi đánh giá: "Cách phối màu, cách điêu khắc không soi mói cho được, người mảnh khảnh, không giống phong cách Hán Bạch quen làm, lúc đầu ta nghĩ là con khắc đấy."

Kỷ Thận Ngữ đáp: "Sư ca nói viên đá này trong suốt và rực rỡ, thêm cả đã khắc Ngưu Lang và Chức Nữ thì mảnh khảnh mới có tiên khí."

Cậu ngoái đầu liếc về phía cửa, Đinh Hán Bạch vẫn chưa trở lại, nhưng cậu không đợi nổi nữa, bèn hỏi luôn: "Sư phụ ơi, người cảm thấy nửa nào tốt hơn ạ?"

Đinh Duyên Thọ hỏi lại: "Tự con nhìn thì thấy thế nào?"

Câu này khó đáp, đáp không hay sẽ đắc tội với người ta, song Kỷ Thận Ngữ vẫn định ăn ngay nói thật: "Nếu chỉ bàn về tài điêu khắc thì sư ca tốt hơn con, anh chắc tay hơn và thành thạo hơn, khi con điêu khắc cùng anh đã rất là ngạc nhiên, cũng vô cùng khâm phục." Cậu dừng giây lát rồi thì thầm vào tai Đinh Duyên Thọ, "Nhưng về phần con thì bắt sáng tốt hơn, mỗi đường dao đều đặt ở vị trí tốt nhất, có phải không ạ, thưa sư phụ?"

Đinh Duyên Thọ sửng sốt, tức khắc cười khì. Ông vốn có bốn đồ đệ, ba đứa kia đó giờ toàn sợ ông, cũng cung kính với ông, có lẽ là vì ở ông có uy nghiêm của người chủ một gia đình. Còn Đinh Hán Bạch thì khó dạy hơn, đã gân cổ lên cãi thì cái gì cũng dám chửi, khiến người ta phải đau đầu.

Xưa giờ chưa từng có một đồ đệ nào thầm thì với ông gần đến vậy, mắt sáng rỡ, tựa như bạn bè với nhau, cũng như đang hợp mưu chơi khăm gì đó. Ông xem Kỷ Thận Ngữ như con nuôi, giờ đây thằng nhóc này đang khoe mẽ khiến ông không khỏi cười phá lên, mừng mở cờ trong bụng.

Đinh Duyên Thọ cũng hạ giọng nói nhỏ: "Đúng vậy, bao tuyệt kỹ của Kỷ Phương Hứa con đều lĩnh hội được hết rồi."

Kỷ Thận Ngữ không nhất định phải phân cao thấp cho bằng được, cậu muốn có được sự công nhận của Đinh Duyên Thọ hơn, để đối phương cho rằng cậu cũng có giá trị. "Sư phụ ơi, thực ra..." Cậu rút vẻ vui mừng lại, "Thực ra vốn dĩ con muốn che giấu tuyệt kỹ này, chỉ có mỗi con biết mà thôi, như vậy sẽ có lợi cho Ngọc Tiêu Ký."

Đinh Duyên Thọ gật gù, chăm chú lắng nghe, Kỷ Thận Ngữ còn nói tiếp: "Nhưng người đối xử với con tốt quá chừng, sư ca lại là con ruột của người, hay là con dạy cho anh ấy nhé?"

Đinh Hán Bạch rửa tay xong về vẫn trưng vẻ mặt bình tĩnh, chẳng hiểu sao đi đánh bóng mà cứ như phá sản vậy. Kỷ Thận Ngữ thấy không ổn bèn ôm đá Phù Dung trốn cho khỏi họa, trốn ra ngoài sảnh trông quầy.

Trong phòng chỉ còn mỗi hai bố con nhà họ Đinh, Đinh Hán Bạch ngồi xuống thở dài thườn thượt: "Nói nghe coi, sư phụ."

Đinh Duyên Thọ nói: "Sàn sàn như nhau cả, về mặt tay nghề thì mày tốt hơn, nhưng chẳng đến cái mức không cam lòng vậy chứ, chẳng lẽ mày còn muốn toàn thắng?"

Đinh Hán Bạch đã toàn thắng quen rồi, chỉ thắng mỗi một bậc sẽ lấy mạng hắn mất, hắn còn từng cười khinh Kỷ Thận Ngữ, giờ ngẫm lại sao cứ thấy ngu ngục hết sức? Mà quan trọng là... Hắn hơi sợ.

Hắn sợ một ngày nào đó Kỷ Thận Ngữ sẽ vượt qua hắn.

Cũng không thể nói là sợ được, mà là không cam lòng.

"Con trai à, hãy mở lòng hơn đi." Đinh Duyên Thọ rất hiếm khi gọi hắn như thế, "Người trong nghề toàn nói tài hoa của bố đã đạt đến đỉnh cao, còn bố chỉ xem như chuyện cười mà thôi, nhưng người khác có khen con thế nào, bố cũng nhận hết. Con là con trai bố, từ nhỏ con đã có thiên phú cao đến chừng nào, đã chịu khó rèn giũa bao nhiêu, bố là người rõ nhất. Chỉ cần con không để phí nó thì con vẫn có thể tung hoành mà không phải cố kỵ gì."

Đinh Hán Bạch bị chọc cười bởi cách dùng từ này, cười xong thì nhìn bố hắn: "Vậy Kỷ Thận Ngữ thì sao?"

Đinh Duyên Thọ nói thật: "Thận Ngữ rất giống Phương Hứa, thông minh khôn cùng, tính giác ngộ rất cao, khuyết điểm cũng giống nhau, đó là không đủ kinh nghiệm. Sở dĩ không đủ kinh nghiệm là bởi vì hai người đó thích quá nhiều thứ, cũng vì quá thông minh nên cái gì cũng học được, không thể chuyên tâm được."

Đinh Hán Bạch cắt ngang: "Còn học được gì nữa?"

Đinh Duyên Thọ trả lời: "Bố nói thế là không hay chứ thằng bé đã theo Kỷ Phương Hứa những mười năm, không thể chỉ biết khắc đồ được." Ông thoáng dừng lại, vỗ mu bàn tay Đinh Hán Bạch, "Căn bản là con không sợ bị vượt qua, con sợ, là bởi vì thằng bé có thứ mà con không có. Nó thích điêu khắc, khắc gì cũng trút tình cảm vào, còn con hãy tự hỏi lòng mình xem, con có vậy không?"

Đây đúng là điểm khiến Đinh Hán Bạch không yên lòng. Đinh Duyên Thọ đã từng nói từ rất lâu trước đây, rằng khi hắn làm việc, kỹ thuật luôn lớn hơn tình cảm, thậm chí lúc khó nghe hơn còn nói hắn chỉ biết lạnh lùng khoe khoang tài cán mà thôi.

Đinh Duyên Thọ cũng đã cảnh cáo hắn, dẫu cho hắn có yêu thích cái nghề này hay không thì vẫn phải gánh trách nhiệm. Hắn đã đồng ý và chưa từng lơi là, nhưng chỉ vỏn vẹn vậy thôi, không trút tình cảm được sâu hơn nữa.

Cửa chính lặng yên không tiếng động, quầy phía Tây bày "Ngân Hà mênh mông", Kỷ Thận Ngữ ngồi sau quầy, trên đầu gối là một hộp hạt dẻ cười, vì để giấu tai mắt người khác nên còn trộn cả mã não băng vào trong nữa, vờ như mình không ăn vụng trong lúc làm việc.

Cắn hạt rột rột, tung lên rồi ngửa đầu há mồm ra, trước khi vào miệng thì bị người ta tóm được. Cậu ngoái đầu nhìn Đinh Hán Bạch, chẳng nói chẳng rằng lại cắn hạt tiếp, cắn xong thì chủ động đưa cho đối phương, hỏi: "Anh nói chuyện với sư phụ xong rồi à?"

Đinh Hán Bạch "Ừ" một tiếng: "Khen cậu đó."

Kỷ Thận Ngữ lại hỏi: "Sư phụ khen em, anh có ghen tị không?"

Đinh Hán Bạch trả lời: "Anh cũng khen cậu mà."

Kỷ Thận Ngữ tin ngay, bởi từ đầu cậu đã biết Đinh Hán Bạch để ý đến cái gì mà. Cắn hạt dẻ cười xong, cậu im lặng trông quầy với Đinh Hán Bạch, có khách vừa đến là đã hỏi đá Phù Dung ngay, cả hai giả làm kẻ ngu, đáp cũng chẳng tử tế.

Tinh điêu tế khắc, không nỡ bán.

Nhưng cuối cùng vẫn bán, vừa mở hàng đã hời một vố lớn, Kỷ Thận Ngữ thích chí chạy đi tìm Đinh Duyên Thọ, bảo là con kiếm tiền cho Ngọc Tiêu Ký đó. Đinh Hán Bạch thấy buồn cười, tâm trạng không mấy sáng sủa cũng khá khẩm hơn.

Hai người ngồi đến khi đóng cửa tắt đèn, tan giờ làm thì Đinh Hán Bạch gạt Đinh Duyên Thọ bao ăn, bèn đi thẳng đến Truy Phượng Lâu ngay đối diện. Lúc ăn, Đinh Duyên Thọ hỏi Kỷ Thận Ngữ có nhớ các hàng ăn Dương Châu không, nào ngờ Kỷ Thận Ngữ lắc đầu.

"Con đã đi các hàng ăn Dương Châu với sư phụ phát chán rồi, không mới lạ nữa." Cậu đáp, "Sau đó sư phụ cũng không thích ăn ngoài tiệm, bèn bảo giúp việc chế biến đa dạng hơn, không ăn món này không ăn món kia, dưỡng sinh."

Đinh Hán Bạch buột miệng: "Dưỡng sinh mà chưa gì đã chết sớm quá."

Miệng nhanh quá nên lời không hay cũng đã nói ra xong, đùi nhói nhói, Đinh Duyên Thọ đá cho hắn một cú dưới bàn. Hắn gắp cánh gà chiên bơ vàng rụm cho Kỷ Thận Ngữ rồi nói: "Nào, đừng giận."

Kỷ Thận Ngữ thích cánh gà này, cắn một miếng rồi lẩm bẩm: "Không sao ạ."

Thầy trò ba người ăn chán chê, khi về nhà thì trời đã đen kịt, nhưng tiểu viện đã thay bóng đèn nên sáng hơn nhiều so với lúc thường. Rốt cuộc mai Đinh Hán Bạch cũng phải đi làm, sau khi vào phòng thì đứng trước tủ đồ kiếm quần áo, Kỷ Thận Ngữ đã tắm đâu vào đấy mà hắn mới chuẩn bị xong.

Đinh Hán Bạch rề rà đi rửa mặt, tắm xong thì tản bộ trong viện, thấy phòng ngủ sáng bèn hô: "Trân Châu! Ra đây!"

Kỷ Thận Ngữ đẩy một cái khe ra: "Sao đêm hôm khuya khoắt lại đi dạo vậy anh?"

Đinh Hán Bạch cố tình đáp: "Dưỡng sinh chứ gì nữa, học tập thầy Kỷ á."

Kỷ Thận Ngữ chạy ra đánh hắn, hô tên họ của hắn, đá chỗ hiểm của hắn nhưng nom khoái chí lắm. Hắn duỗi tay ghìm lại, bẻ ngược tay cậu, lấy chân chắn chân, nhưng lại làm bộ xin tha mạng.

Trên cổ tay cậu có đeo thứ gì đó lạnh băng, lắc qua lắc lại không ngừng, Đinh Hán Bạch tóm lấy: "Cái lắc tay này của cậu lắc kinh thật đấy."

Kỷ Thận Ngữ giật chiếc mặt dây chuyền bằng đá Hổ Phách về, ý cười vẫn chưa vơi, lộ mấy chiếc răng trắng.

Đùa đủ rồi, Đinh Hán Bạch tắt đèn, tiểu viện nhất thời tối om, hắn dạo bước với Kỷ Thận Ngữ trong màn đêm nọ, kế đó bước lên bậc thềm, đến lúc tới cửa mới tạm biệt. "Ngủ đi." Hắn không hay nói câu chúc ngủ ngon.

Kỷ Thận Ngữ bất chợt vỗ người hắn: "Sư ca này, em muốn đáp lễ anh bằng một món quà."

Một cơn gió thổi qua, chim khách líu lo trong lồng, đám mây trên bầu trời đêm cũng đã bị thổi đi mất, sao trời xuất hiện, ánh trăng giúp Đinh Hán Bạch trông thấy rõ gương mặt của Kỷ Thận Ngữ.

Đôi mắt người ấy sáng rỡ, nghiêm túc muốn lễ thượng vãng lai với hắn.

(*Lễ thượng vãng lai: Có qua có lại.)

Quà... Không hiểu sao lại khiến người ta nhớ đến chiếc khuyên tai bằng Phỉ Thúy giả nọ.

Đinh Hán Bạch lùi ra sau rồi nói thẳng thừng: "Thôi cậu cứ dẹp đi."

*Giải thích chút xíu về xưng hô giữa bố con nhà họ Đinh. Bình thường tôi sẽ để Đinh Duyên Thọ xưng bố - mày cho hợp, còn khi nào tâm sự tỉ tê nghiêm túc như trong chương này thì sẽ thành bố - con nha.

Chương 12: "Em không nhìn, anh đi đi."

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 12: "Em không nhìn, anh đi đi."

"Thêm đôi bát đũa nữa!"

Khi Khương Thải Vi nghe thấy tiếng gào này là lúc đang nấu canh, tay run bắn suýt chút nữa đã làm rớt bát vào nồi, người gào thì vồn vã, cô chưa kịp bưng ra đã tự xông tới. Cô đưa canh sang, không khỏi cảm thán, "Lạ à nha, dậy sớm vậy làm gì?"

Đinh Hán Bạch uống một hơi hết nửa bát: "Dì bớt lạ lùng đi, không đi làm thì dì nuôi cháu nhé?"

Khương Thải Vi bị nghẹn lời trước thằng cháu trai kém ba tuổi, bèn nắm tay đập sau lưng đối phương một cái mới hả giận, kế đó Khương Sấu Liễu mới bước vào phụ họa: "Còn trách người khác lạ lùng, mình thì suốt ngày nhắm mắt nhắm mũi xin nghỉ, cục trưởng Cục Di sản văn hóa cũng chẳng rảnh như con đâu."

Đinh Hán Bạch không muốn cãi với đôi chị em như thể mẹ con này, bèn đứng chen trong bếp đến khi ăn no rồi mới đi. Đã mấy ngày không đi làm, hắn vội ra cửa, dọc đường đi còn mua một chiếc bánh kem bơ mời dì lao công ăn, bảo người ta chú trọng quét tước văn phòng một lượt.

Thật ra văn phòng toàn là tự túc quét tước rồi thay phiên nhau, hoặc ai trẻ tuổi nhất cứ tự giác đứng ra làm. Nhưng Đinh Hán Bạch không chịu, cầm chổi xách hốt rác có thể giảm tuổi thọ hắn luôn đấy, vì vậy mỗi lần quay vòng đến lượt hắn là hắn lại hối lộ dì lao công trong tòa nhà.

Các đồng nghiệp lục tục đến, phát hiện trên bàn có vòng tay, Đinh Hán Bạch nói: "Mấy ngày trước tôi mua ở chợ đồ cổ đó, đồ giả đã quẳng hết rồi, đồ thật đeo chơi đi."

Tổ trưởng Thạch hỏi hắn: "Có tặng cho chủ nhiệm Trương không?"

Đinh Hán Bạch trả lời: "Không, cháu đây không thích nịnh bợ sếp."

Tổ trưởng Thạch vừa bực vừa mừng, nhìn cái đức hạnh của hắn mà đau đầu, lúc này Trương Dần xách cặp vào, quét mắt nhìn mọi người rồi cất tiếng chào. Đinh Hán Bạch đành phải đứng dậy dưới cái nhìn của tổ trưởng Thạch, phủi quần kéo áo, đi theo Trương Dần vào văn phòng chủ nhiệm.

"Nghỉ đủ rồi à?" Trương Dần kéo cửa sổ lá sách lên, "Viện trưởng Lý gọi điện bảo bức phù điêu thời Hán đã trùng tu xong rồi, hoan nghênh cậu đi kiểm tra."

Đinh Hán Bạch chẳng nhớ nhung gì vật đó cả, chỉ yên tĩnh ngồi nghe đối phương sắp xếp những công việc mới đây. Cuối cùng, Trương Dần hỏi: "Không phải Ngọc Tiêu Ký thanh cao lắm à, sao đến cả vòng gỗ cũng bán?"

Rõ là hiểu lầm xuất xứ của vòng tay này, Đinh Hán Bạch không giải thích gì, lấy một chiếc vòng mình giữ trong túi ra, "Không còn cách nào nữa, người không thể sống bằng sự thanh cao được, còn gỗ toàn là đồ thượng thừa, tặng cái vòng này cho anh đó."

Trương Dần không nhúc nhích: "Được rồi, đi làm việc đi."

Đinh Hán Bạch như thuốc cao bôi trên da chó: "Hạt gỗ nu, không có một miếng sứt nào, anh nhìn này."

(*Hạt gỗ gu – nguyên văn là 瘤疤珠子 – Sau khi tìm hiểu qua hình ảnh lẫn giải thích trên baidu và thử tìm hiểu bên Việt Nam mình gọi gì thì tôi thấy "Gỗ nu" là sát nhất. Gỗ nu là một thuật ngữ mà người chơi đồ gỗ thường gọi, nhưng nó không phải tên một loại gỗ mà nó là bướu và mắt gỗ được hình thành từ những cây có tuổi thọ lên đến hàng trăm năm. Phần nu gỗ là phần thương tật của cây gỗ, nó có vân và màu sắc tự nhiên rất đẹp và khác biệt so với cây gỗ chủ. Cây gỗ bị thương tật do bị sâu mọt, chặt chém, sét đánh, xây xát sẽ tạo thành nu gỗ. Do đặc điểm sinh lý và lý do bảo tồn sự phát triển tự nhiên của cơ thể sống, cây hấp thu chất dinh dưỡng từ đất và không khí, dồn một lượng lớn vào nơi bị thương tổn làm cho nó phát triển khác thường so với những nơi khác trên thân cây khiến chỗ thương tật phình to ra thành bướu. Độ lớn của bươu phụ thuộc vào cách hấp thụ chất dinh dưỡng, thời gian sinh trưởng của cây. Nhưng đa phần thân cây có bướu đều có đường kính lớn hơn thân cây chủ. Nói như thế không có nghĩa là có thể tạo ra nu bằng cách mà con người có thể can thiệp vào được như dùng dao chặt, làm trầy xướt thân cây. Việc làm này có tỷ lệ thành nu rất thấp, có khi chỉ tầm khoảng 1%. Cho nên gỗ nu trên thị trường thuộc hàng hiếm và có giá trị rất cao.)

Lần này hắn ra sức giới thiệu làm Trương Dần không tỏ vẻ được nữa, bèn cụp mắt thưởng thức vòng tay. Màu sắc và độ dày đều qua cửa, Trương Dần lấy đèn cực tím từ ngăn kéo ra, xem vân xem sao, trông hết sức hài lòng.

"Chủ nhiệm à, thế tôi ra ngoài trước nhé?" Đinh Hán Bạch nhẹ giọng hỏi rồi đứng dậy rời đi, ngay khi đóng cửa thì bĩu môi. Mãi đến tận chiều, Trương Dần đeo vòng đi khoe khoang khắp chốn thì chợt biết được đó là hàng vỉa hè chỗ chợ đồ cổ Đồi Mồi, khó đảm bảo là thật, cũng khó đảm bảo là xuất sắc, bèn tức đến nỗi ước gì có thể xách Đinh Hán Bạch lên đánh một trận.

Ba phần là tức vì đồ, bảy phần là tức vì màn lừa gạt của Đinh Hán Bạch.

Cửa văn phòng chủ nhiệm đóng sầm, ai nấy đều im bặt cúi đầu làm việc, tổ trưởng Thạch mệt lòng dịch ghế dựa lại gần: "Tiểu Đinh à, cớ gì cháu cứ phải cà khịa với cậu ta vậy?"

Đinh Hán Bạch gõ chữ: "Chỉ dựa vào việc cháu có thể làm bản phân tích hiện vật này còn anh ta thì không, không làm được còn chẳng biết đường câm miệng đi, còn đi chế nhạo nhà cháu làm cháu bực."

Tổ trưởng thạch không mấy vui vẻ: "Đơn vị có nhiều người thế mà mấy ai hiểu được đâu, đúng không?"

Đinh Hán Bạch gõ dấu chấm: "Không hiểu cũng chẳng sao hết, nhưng cháu không chịu nổi cái tính đã không hiểu gì lại còn hay khoe mẽ, rồi ngày nào cũng hạ bệ người khác, đúng là chẳng biết sức mình đến đâu."

Hắn đợi máy in chạy, thầm nhủ đi làm chẳng có hứng gì cả, hay cứ nghỉ ở nhà thì hơn.

Nghĩ đến nhà tự nhiên lại nghĩ đến Kỷ Thận Ngữ. Kỷ Thận Ngữ nói là sẽ tặng quà cho hắn, hắn từ chối. Sáng nay Kỷ Thận Ngữ còn bảo quà rất đắt đỏ, hắn không ôm hi vọng gì, cũng đoán là mình sẽ chẳng ngạc nhiên mấy.

Không hiểu sao Kỷ Thận Ngữ lại hắt hơi, đứng trước cửa sụt sịt mũi.

Đương lúc đóng cửa thì Khương Thải Vi bước vào từ cổng vòm, đối mặt với ánh nhìn của cậu, "Thận Ngữ, sao chưa ăn sáng?" Khương Thải Vi rất lo cho cậu nên hay mang đồ ngon cho, "Tóc ướt thế, mới gội à?"

Kỷ Thận Ngữ gật đầu: "Dì út ơi, hai ngày tới cháu không ra phòng khách ăn cơm đâu, dì nói với sư phụ và sư mẫu giùm cháu một tiếng nhé." Thấy Khương Thải Vi tò mò, cậu bèn giải thích, "Cháu muốn làm một thứ, nên không ra viện được."

Khương Thải Vi ngạc nhiên hỏi: "Thế cũng chẳng đến mức không ra cửa không ăn cơm chứ, có phải sức khỏe không ổn ở đâu nên cháu ngại nói không?"

Kỷ Thận Ngữ cảm ơn sự săn sóc của đối phương: "Cháu sợ phân tâm sẽ không làm tốt được, bánh đào dì đưa cháu vẫn chưa ăn xong mà, cháu đói bụng thì sẽ ăn đôi cái trong phòng."

Cậu dỗ đến khi Khương Thải Vi đồng ý mới thôi, đối phương đưa thêm nhiều đồ ăn vặt và hoa quả cho cậu, đợi người vừa rời đi là cậu vào phòng cài then cửa ngay, khóa cửa sổ lại, không bận tâm đến mái tóc ướt nhẹp mà lấy lọ tẩy da chết và kem dưỡng tay ra thoa như thường lệ.

Mười ngón tay không nhiễm bất cứ một hại bụi nào, bụng ngón được thoa đến là trơn nhẵn và mềm mại, sau đó đi rửa, công tác chuẩn bị này mới được xem là hoàn thành. Kỷ Thận Ngữ ngồi trước bàn, bày hết dụng cụ ra, có hơn mười loại dao cắt la-de, thậm chí còn có các máy mài đời cũ. Giữa mặt bàn là đống mảnh vỡ hiện vật bị chia thành hai phần, vật bị vôi hóa hư hao và vật đi kèm đều được giữ gìn tốt.

Kỷ Thận Ngữ lấy một cái đáy bát sứt mẻ, đặt lên giấy, phác hình theo mép viền, sau đó lựa nét từ phần bị mẻ, cầm dao cắt, mài rất tỉ mỉ.

Nửa lọ keo dán mang từ Dương Châu đợi lên sàn, từng giây từng phút, một ngày cứ thế trôi qua. Đến lúc hoàng hôn... Đến khi ánh nắng vàng ấm tan biến mất, chỉ còn lại màn đêm đen kịt thì cuối cùng cũng làm xong. Bụng ngón không có bất cứ một vết chai nào chính là thứ công cụ tốt nhất, có thể thử xúc cảm nhẵn mịn có đủ hay không, Kỷ Thận Ngữ ngồi tù tì trên ghế hàng mấy tiếng đồng hồ, rốt cuộc cũng dán xong một cái đáy bát.

Đây là nguyên nhân cậu không thể có vết chai được, cũng là điều mà cậu đã học được từ nhiều năm đi theo Kỷ Phương Hứa.

Đinh Hán Bạch từng hỏi cậu biết sửa sách phải không, cậu đã đáp qua loa cho xong chuyện, dù sửa chữa chỉ là một công đoạn trong đó mà thôi. Nói chính xác ra thì cái cậu học được gọi là "Làm giả đồ cổ."

Đinh Hán Bạch không về tiểu viện, sau khi về nhà bèn đợi ăn cơm tối ở phòng khách luôn, khi ăn cơm bên tay trái trống người, khuỷu tay không chọc trúng ai, thậm chí thấy khá là không quen. Ăn xong hắn xem tivi với Khương Sấu Liễu, chỉ cần hắn thành thật làm việc thì luôn là cục cưng trong mắt mẹ, xem tivi thôi mà được đút cả đống đồ tráng miệng no căng bụng.

Đến tận đêm khuya về tiểu viện, hắn thấy cửa phòng Kỷ Thận Ngữ đóng, tắm xong về phòng vẫn thấy cửa đóng. Hắn bèn ngồi ngay dưới hành lang đọc cuốn "Như núi như biển", từ chương nọ sang chương kia, chương tra cứu đồ cổ rất thú vị, bèn đọc hết trang này đến trang khác.

Gió mát giúp lật trang, ve không ngừng kêu râm ran, mắt Đinh Hán Bạch đã mỏi, ngoái đầu lại nhìn cửa phòng ngủ rồi hắng giọng một tiếng: "Kỳ ghê! Tam phục thiên mà lại có gió to hạ nhiệt độ!"

(*Tam phục thiên ý chỉ tháng nóng nhất trong hè.)

Kỷ Thận Ngữ đang làm việc một cách cẩn thận, im lặng đến mức như không có hơi thở.

Đinh Hán Bạch tung mồi mà cá chẳng cắn câu, bèn thu sách về chuẩn bị đi ngủ, thong dong bước đến cửa phòng người ta, tò mò cộng thêm việc thấy đèn vẫn sáng. "Kỷ Trân Châu à, làm gì đấy?" Hắn hỏi một cách thân thiết, "Có đói không, chúng ta ra phòng bếp hâm canh cá nhé?"

Kỷ Thận Ngữ bị quấy rầy đành đáp: "Em không đói."

Đinh Hán Bạch chuyển sang cách khác: "Hôm nay ở đơn vị có chuyện rất buồn cười xảy ra, mở cửa anh kể cậu nghe cho."

Kỷ Thận Ngữ nói: "Em không nghe."

"..." Càng từ chối càng thấy tò mò hơn, Đinh Hán Bạch ước gì mình có thể đục một cái lỗ lên cửa, "Chương thứ tư của cuốn này hơi sai sai, nói linh tinh về đồ sứ Châu Phi, cậu mau nhìn này."

(*Đồ sứ Châu Phi hay đồ gốm Tz"u-chou là một thuật ngữ cho một loạt các đồ gốm sứ Trung Quốc từ giữa triều đại nhà Đường cuối triều đại nhà Minh, nhưng đặc biệt gắn liền với thời Bắc Tống đến thời Nguyên trong thế kỷ 11 14.)

Kỷ Thận Ngữ mất kiên nhẫn: "Em không nhìn, anh đi đi."

Đinh Hán Bạch được Khương Sấu Liễu cưng cả tối, giờ đứng trước cửa nếm trải hết bao nóng lạnh chốn nhân gian, cuối cùng dỗi rồi đi mất. Ngủ qua một đêm, hôm sau ra quyết tâm không thèm đếm xỉa gì đến Kỷ Thận Ngữ nữa, ai ngờ đi ra lại phát hiện cửa phòng cách vách vẫn đóng.

Tiếng bước chân xa dần, Kỷ Thận Ngữ chớp đôi mắt mỏi mệt, trước mắt cậu là một bình sứ xanh với hình dáng ban đầu, còn mỗi cổ bình là chưa làm xong. Cậu mở cửa đi rửa mặt, chưa đến mười phút sau lại về phòng khóa cửa, chỉ ăn vài miếng bánh lót dạ, nếu không no bụng sẽ dễ mệt.

Tiếng bước chân càng gần, Kỷ Thận Ngữ nghiêng đầu mài miệng bình, khóe mắt thoáng nhìn bóng dáng ngoài cửa.

Đinh Hán Bạch hỏi: "Cậu tạo bom nguyên tử ở trong đó à?"

Kỷ Thận Ngữ không ngước mắt, chỉ mỉm cười, Đinh Hán Bạch lại hỏi: "Nói tặng quà xong lại không lộ mặt ra, hối hận hả?"

Kỷ Thận Ngữ phiền tên này muốn chết, hít sâu giữ động tác trên tay cho vững. Đinh Hán Bạch tự thấy mất mặt nên đi mất. Cậu bế quan tu luyện suốt hai ngày một đêm, dùng cách sửa dán để bước đầu hoàn thành bình sứ xanh, vì phần thân mảnh sứ vỡ là hiện vật vớt dưới đáy biển nên phần gia công tiếp đó đơn giản đi nhiều.

Cậu lại thức suốt đêm, tạo đường vân trên bình hoa, đắp lại phần cặn đã tróc lẫn rêu và bọ. Mưa cứ rơi rả rích mãi. Cậu tập trung làm hơn mười khâu, khi trời sắp sáng thì trời đã lạnh đến độ không cảm nhận được độ ấm lúc thường được.

Đinh Hán Bạch khoác thêm một cái áo khoác rồi yên lặng đi làm, không đến cửa hỏi han nữa.

Lòng hiếu kỳ của con người cũng có giới hạn, lên ngưỡng đỉnh rồi sẽ giảm xuống, cho đến khi không còn gì nữa cả.

Trời mưa sinh lười biếng, trong văn phòng chẳng mấy ai làm việc, đến cả Trương Dần cũng bưng cốc nước rảnh rỗi đi qua đi lại. Đinh Hán Bạch đứng ngắm cảnh nơi cửa sổ, sờ nhánh phong đằng leo men theo khung cửa, nghiền ra rồi vứt xuống dưới, chỉ còn mỗi cánh tay dính màu xanh ẩm ướt.

Hắn đoán, chắc giờ Đinh Duyên Thọ đang đọc báo ở Ngọc Tiêu Ký, trước cửa vắng tanh vắng ngắt trông đáng thương ghê.

Hắn lại đoán, chắc Khương Thải Vi đang uống nước ấm ở văn phòng, trời hạ nhiệt độ còn mặc váy và trang điểm.

Suy nghĩ cuối cùng lại rẽ về nhà, hắn nghĩ đến Kỷ Thận Ngữ đóng cửa tạo đồ, thần thần bí bí, làm người ta hiếu kỳ.

Đinh Hán Bạch không hề nghĩ sai, cửa phòng vẫn đóng, đồ đã làm đến bước cuối, mười ngón tay của Kỷ Thận Ngữ đỏ bừng, do nắm dao lâu quá nên bị hằn lên bụng ngón, dính nước keo nên da bị tổn thương, nhưng cậu đã làm tốt lại muốn tốt hơn nữa, không chịu cẩu thả chút nào.

Cậu muốn đáp lễ Đinh Hán Bạch bằng một món quà, thẻ đánh dấu sách bằng vàng và mặt dây chuyền bằng đá Hổ Phách, cậu không thể vung tay keo kiệt được, trước hết cần phải kiếm chút tiền đã. Hồi trước lượm mấy mảnh sứ vỡ này là để luyện tập, lần này vừa khéo lấy ra dùng luôn, làm xong cầm ra chợ đồ cổ bán là sẽ có tiền.

Kỷ Thận Ngữ không thể nói chuyện này cho người khác biết được. Tuy nhà làm điêu khắc, nhưng làm giả tốn thời gian và công sức hơn nhiều so với điêu khắc, bị người ta biết tức là thêm phiền. Hơn nữa lúc trước Kỷ Phương Hứa mua bán đồ cổ có quảng giao đấy, song không một ai biết rằng cậu biết làm những thứ này, bởi đây là tài năng mà cậu phải giữ kín không được nói ra, không phải chuyện gì hay ho để có thể bô bô bên ngoài.

Còn một điều nữa, đó là Kỷ Thận Ngữ nhớ hôm đó đi chợ đồ cổ Đồi Mồi, Đinh Hán Bạch từng nói với cậu là hắn biết phân biệt đồ thật đồ giả, vẻ mặt và ngữ điệu đó vừa ung dung vừa kiêu căng, như thể đó là chuyện không phải nghi ngờ gì hết. Nếu Đinh Hán Bạch biết cậu làm giả thì không tưởng tượng được hắn sẽ có phản ứng gì.

Vừa gọt giũa, vừa cân nhắc, rốt cuộc Kỷ Thận Ngữ cũng hoàn thành công việc, mưa cũng ngừng rơi.

Cậu bỏ bình sứ xanh vào tủ đồ để hong khô, dùng ít sức cuối cùng để dọn sạch bàn, chẳng buồn lấp bụng, cũng chẳng còn sức tắm rửa thay đồ, đến cả việc mở cửa sổ ra cũng không lấy sức được nữa là.

Ba ngày hai đêm không ngủ không nghỉ, tinh thần căng thẳng được thả lỏng ngay thời khắc được nằm trên giường. Kỷ Thận Ngữ ngủ không cởi áo, vội đi gặp Chu Công ngay.

Sau cơn mưa trời đã lạnh nay còn lạnh hơn, cơm tối có nấu một nồi canh thịt viên, ăn xong Khương Sấu Liễu bèn múc riêng một bát để hâm nóng lại, bảo Đinh Hán Bạch đưa cho Kỷ Thận Ngữ ăn. Đinh Hán Bạch thấy phiền kinh khủng, bèn bưng đi chẳng mấy vui vẻ, đi được hai bước lại quay lại: "Lấy cả bánh nướng hạt mè nữa..."

Hắn bưng khay về tiểu viện thì ngạc nhiên phát hiện đèn đã tắt. "Kỷ Trân Châu ơi?" Hắn gọi, đặt khay xuống hành lang, "Mẹ anh nấu canh thịt viên cho cậu này, mở cửa ăn cơm đi."

Bên trong không có động tĩnh gì, hắn cũng không muốn làm nhân viên phục vụ: "Đặt xuống rồi, thích thì ăn không thì thôi."

Đinh Hán Bạch nghênh ngang rời đi, rúc trong thư phòng vẽ vời. Vẽ đến khi nửa đêm gà gáy, quên sạch hết tất cả mọi chuyện, về phòng ngủ ngửi thấy mùi mới bừng tỉnh, bắt gặp cái khay vẫn đặt dưới hành lang, không ngờ đồ ăn vẫn chưa xê dịch gì?!

Hắn vọt thẳng đến ngoài cửa, ra sức gõ: "Mở cửa ra, anh không tin, đây là nhà cậu hay nhà anh?"

Gõ được một lúc mà bên trong vẫn không phản ứng gì, Đinh Hán Bạch rút tay về, bỗng thấy hoảng. Trong đó không xảy ra chuyện gì chứ? Kỷ Thận Ngữ không mắc bệnh tim di truyền gì rồi chết bên trong đó chứ?

"Kỷ Trân Châu!" Hắn gào lên, nhấc chân đá phăng cửa, cửa mở ra chạy vọt vào trong thì ngửi thấy mùi keo dán... Bật đèn lên, phòng sạch tinh tươm, có tiếng hít thở vững vàng truyền đến từ trên giường.

Kỷ Thận Ngữ cuộn thành một cục, rõ là đã rét run.

"Đúng là... thần bí vãi chưởng." Đinh Hán Bạch đi đến bên giường, đắp chăn lên cho đối phương, lúc này mới phát hiện ra Kỷ Thận Ngữ không thay đồ ngủ, mặt lấm lem, mắt thâm quầng, đôi gò má gầy xọp, tay loang vết bẩn.

Hắn vắt khăn ngồi xuống mép giường, vén sợi tóc mềm mại lên, lau mặt cho Kỷ Thận Ngữ từ trán đổ xuống. Xuống tay không chừng mực, gọi như quỷ rống quỷ gào thế kia mà chẳng đánh thức người ta dậy được, thế mà lại lau người ta đến tỉnh.

Da mặt Kỷ Thận Ngữ ửng đỏ, đau đến nhe răng: "Con không dám nữa đâu..."

Đinh Hán Bạch dừng tay: "Không dám gì?"

Kỷ Thận Ngữ mơ màng đáp: "Không dám ăn vụng nữa."

Thì ra là coi Đinh Hán Bạch thành vợ Kỷ Phương Hứa, còn tưởng cái đau đó là một cú bạt tai. "Để sư mẫu lau cho con." Đinh Hán Bạch tức đến nỗi đổi cả giọng, lại lau lung tung, sau đó là lau tay cho Kỷ Thận Ngữ.

Cẩn thà cẩn thận, cứ sợ tăng tí lực thôi là tróc da ngón tay ngay, Đinh Hán Bạch nhìn rồi suy nghĩ xem cái tay này làm gì mà lại thành ra như vậy? Mãi lâu sau mới ngước mắt lên thì phát hiện ra Kỷ Thận Ngữ đã tỉnh rồi.

Cậu đang mông lung và lặng thinh nhìn hắn.

Đinh Hán Bạch đặt bàn tay đó xuống: "Cậu đói chưa?"

Thấy đối phương gật đầu, hắn còn nói thêm: "Anh làm một trò ảo thuật cho cậu nhé."

Kỷ Thận Ngữ nhắm mắt lắng nghe tiếng Đinh Hán Bạch đứng dậy, lắng nghe cả tiếng bước chân rời khỏi phòng ngủ rồi quay trở lại. Đợi đến khi Đinh Hán Bạch bảo cậu mở mắt, cậu mới thấy đầu giường có một bát canh thịt viên và hai cái bánh nướng.

Đinh Hán Bạch đi về ngủ, không hỏi cái gì cả.

Trời lại đổ mưa, nhưng Kỷ Thận Ngữ đã quên phong cảnh của Dương Châu mất rồi.

*Chú thích:

Hạt gỗ nu:

Xem ảnh 1

Chương 13: Giỏ tre múc nước cũng bằng không

Edit: Dú

Chương 13: Giỏ tre múc nước cũng bằng không

Cái tên Đinh Hán Bạch này chẳng tốt quá một đêm, đêm trước thì tri kỷ lau mặt bưng cơm cho người ta, hôm sau tỉnh dậy bèn đập cửa hỏi han. Hết cách rồi, lòng hiếu kỳ của hắn đã phơi ra đó mấy ngày nay, thể nào cũng phải làm cho ra lẽ mới được.

Kỷ Thận Ngữ bị quấy giấc ngủ bởi tiếng đập cửa, bèn vùi đầu xuống gối, sau đó tên thổ phỉ ngoài cửa đá phăng cửa ra, xông tới, ngồi bộp xuống giường, lay cậu qua lớp chăn.

"Dậy mau." Bàn tay Đinh Hán Bạch dồn sức hơn nữa, nhấn eo Kỷ Thận Ngữ một cái thế mà còn có tiếng xương ken két, "Mấy ngày nay cậu ru rú trong phòng làm gì đấy? Không nói rõ thì tuần này đừng nghĩ đến chuyện tắm rửa nữa."

Kỷ Thận Ngữ trở tay che eo, nghe thấy chữ "Tắm rửa" bèn cãi lại ngay: "Thế em đi hồ Thanh Hoa, em đi xông hơi."

Cậu trở người ngồi dậy, rút vẻ lim dim đi, chỉ còn lại sự tỉnh táo sau khi đã ngủ đủ giấc. Đinh Hán Bạch ngồi cách cậu có nửa cánh tay, nghiêng người ngửi ngửi, nhíu mày trợn mắt: "Người cậu bốc mùi rồi kìa! Chua loét, anh mắc ói ghê!"

Giọng điệu và biểu cảm của người nọ trông quá thật, như thể sắp mở miệng ra ói thật, tức thì mặt Kỷ Thận Ngữ đỏ bừng, lúng túng và khó xử, vân vê quần áo dưới chăn rồi ngập ngừng đáp: "Em không đổ mồ hôi mà, giờ em đi tắm ngay đây."

Đinh Hán Bạch lật mặt nhanh như lật bánh tráng, đưa tay ngăn lại: "Đã bảo là không cho tắm rồi, giờ khai ra mấy ngày nay cậu đã lén lút làm gì cái đã."

(*Thực ra gốc ở câu này là 丁汉白来一套川剧变脸 – Xuyên kịch biến diện là một loại hình biểu diễn nghệ thuật có nguồn gốc từ Tứ Xuyên. Biến diện hay còn gọi là chuyển mặt nạ. Các diễn viên sẽ chuyển từ một mặt nạ này sang một mặt nạ khác và để lộ ra khuôn mặt mới ngay trong chớp mắt trước toàn thể khán giả. Trong đó có người có khả năng đổi 20 mặt nạ trong vòng 6-7 phút.)

Lại vòng về vụ này, Kỷ Thận Ngữ cũng chẳng rõ mình có bốc mùi hay không, nhưng Đinh Hán Bạch cứ giục, cậu bèn khom người lủi dưới cánh tay đối phương, chân trần giẫm lên sàn nhà: "Em đóng cửa thì thích làm gì chẳng được, sư phụ cũng không quản, anh càng không quản được đâu..."

Đinh Hán Bạch vừa nghe đã nổi đóa ngay: "Bớt lấy Đinh Duyên Thọ ra để khè người ta đi, vô ích thôi! Đây là viện của anh, cậu làm gì cũng phải chịu sự quản lý của anh hết." Hắn đứng dậy, ép đối phương phải lùi về phía sau, "Chơi trò thần bí đúng không? Từ hôm nay không được ra tiền viện ăn cơm nữa, cứ đóng cửa ăn trong phòng luôn đi!"

Kỷ Thận Ngữ loáng thoáng cảm thấy Đinh Hán Bạch ăn mềm không ăn cứng, thế nhưng cậu cóc thèm sợ hắn, nghe xong chẳng dịu giọng đi mà còn gân cổ lên cãi bướng: "Không đi thì thôi, ngồi ăn cơm cạnh anh chả có hứng ăn gì sất, em cũng mắc ói!"

Đinh Hán Bạch đá cửa rời đi, cửa bị đá lắc lư, cảm thấy sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ sập xuống. Kỷ Thận Ngữ bị cơn gió lùa vào thổi tỉnh, mới nhận ra hai bọn cậu trẻ con và buồn cười quá, song giận thì đã giận rồi, thể nào cuối tuần này đối phương sẽ không thèm đoái hoài gì đến cậu nữa.

Không đoái hoài cũng tốt, yên tĩnh.

Kỷ Thận Ngữ vẫn dọn phòng, còn ngâm nga một khúc hát Dương Châu mà Kỷ Phương Hứa thích nghe lúc sinh thời, tắm táp thay quần áo xong, cả người lẫn phòng bỗng bừng sáng hẳn. Hai ngày nay ẩm thấp, bình sứ xanh phải phơi khô đến tận thứ hai, cậu bèn ôm bài tập nghỉ hè đến Ngọc Tiêu Ký trông quầy.

Con trai không dễ chọc thì cậu sẽ làm ông bố vui vẻ.

Đợi đến thứ hai, trời trong lành mà mặt Đinh Hán Bạch vẫn chưa mấy sáng sủa, thốt một câu buổi tối có buổi hội họp bèn đi làm luôn.

Kỷ Thận Ngữ đủng đỉnh chọn quần áo, mặc bộ đồ xa xỉ nhất, đeo cặp sách đựng bình sứ canh rồi thẳng tiến đến chợ đồ cổ Đồi Mồi. Cậu bước vào cổng, ung dung đi dạo khắp hai vòng, mua lon nước ngọt rồi tìm một góc trống sáng sủa, bắt đầu bày rạp.

Tức thì có một thanh niên trẻ đến hỏi: "Cái bình này như nào vậy?"

Kỷ Thận Ngữ uống lon nước ngọt, liếc mắt khinh khỉnh như thể cầm cúp Kim Kê và Bách Hoa vậy: "Chẳng như nào cả, đừng chắn sáng nữa."

Ở cái giới này, chưa chắc sẽ nghe ra người trong nghề nhưng chắc chắn kẻ ngoại đạo sẽ bại lộ ngay. Cậu đuổi hết người đến hóng chuyện, lót báo cũ ngồi xếp bằng, đợi người mua chân chính.

Không bao lâu sau, một bà cụ đi ngang qua, tóc bạc được chải gọn gàng lẫn trong vòng tai trân châu, dừng lại nói: "Ôi, ta phải đeo kính viễn để ngắm cái này."

Xung quanh có người đánh mắt sang, thì ra bà cụ này là khách quen, thích sưu tầm trang sức cổ. Kỷ Thận Ngữ không đoán được thực lực của bà cụ, bèn tròn mắt đánh giá, cố tình ra vẻ không thèm coi ai ra gì.

Bà cụ hỏi: "Nhóc à, cháu bán đồ mà không giới thiệu gì hả?"

Kỷ Thận Ngữ nói: "Nhà cháu có rất nhiều đồ cổ, cái này lấy bừa từ trong tủ đồ ra, bán để đổi tiền tiêu vặt."

Trông mặt bà cụ đôn hậu: "Trong nhà có nhiều đổ cổ như thế, cháu lại ăn mặc chỉn chu, thế mà còn thiếu tiền tiêu vặt ư?"

"Cháu trượt cuối kỳ, bố cháu không cho tiền tiêu." Kỷ Thận Ngữ cúi đầu, gõ lon nước ngọt lên bình sứ xanh, "Cơ mà người thạo nghề sẽ biết bình này của cháu là hàng tốt, cháu không bán tháo đâu, nếu không, bị bố biết sẽ ăn đòn."

Đang nói thì có thêm một người đàn ông bước đến, đeo kính xách cặp đựng công văn, khá là nhã nhặn. Gã ngồi xổm xuống, cầm cổ bình lên nhìn, sờ hoa văn trên mặt sứ, khẩy vết bẩn dọc hoa văn, hỏi mà như không hỏi: "Chất bẩn này đặt trong tủ đồ cũng tích tụ ra được."

Kỷ Thận Ngữ tỉnh bơ: "Bố tôi nói từ khi mua thì cái bình này đã thế rồi, không có vết bẩn mới là giả ấy."

Có người thích cách nói này, người đàn ông trở bình để xem tỉ mỉ hơn, Kỷ Thận Ngữ cụp mắt ra vẻ thờ ơ, nhưng thật ra rất căng thẳng. Đống sứ vỡ đó toàn là hiện vật trục vớt dưới biển, vết bẩn bên ngoài cũng đúng là vôi hóa thật, bởi vậy nhìn từ chất liệu thì bình sứ này không có vấn đề gì, điều thử thách chính là tay nghề của cậu.

"Anh muốn mua không?" Cậu hỏi, "Không mua thì đừng khảy với sờ nữa."

Gã đàn ông không quan tâm, cứ nhìn ngắm mãi lâu: "Màu men bình sứ xanh này của cậu không được đều, khá ố vàng."

Một khi đã soi mói tức là muốn ép giá, muốn ép giá tức là muốn mua. Kỷ Thận Ngữ liếc nơi ố vàng, nghĩ thầm, chẳng lẽ không ố vàng được ư? Mảnh vỡ màu men không hợp nên chỉ đành dùng thứ khác giông giống đắp vào. Cậu bèn đáp: "Nếu không ố vàng thì anh phải cân nhắc đến chuyện thật hay giả, bởi ố vàng là do nó đã chìm dưới biển quá lâu."

Gã đàn ông chẳng hề bất ngờ, bèn đáp lời nói cho quần chúng nghe: "Đúng, đây là cái bình được trục vớt dưới biển lên, có vẻ là bình thời nhà Thanh."

Bà cụ lập tức hỏi: "Vậy tốn bao nhiêu tiền?"

Gã đàn ông mỉm cười: "Tuy được bảo tồn nguyên vẹn, nhưng hình dạng bình thường, bên ngoài lại không có tì vết nào, không đắt nổi."

Kỷ Thận Ngữ nghe vậy cũng mỉm cười. Cậu chỉ muốn đổi lấy tiền mua quà cho Đinh Hán Bạch mà thôi, thời gian gấp rút cũng chẳng thể làm ra thứ gì phức tạp hơn, người này nói đúng. "Anh mua không?" Cậu giơ ba ngón tay lên, "Giá này."

Ba vạn, gã đàn ông nhìn thẳng vào cậu, nói: "Một vạn ba."

Kỷ Thận Ngữ xoay mặt đi: "Xem xong thì đặt xuống, đừng chắn sáng nữa."

Gã đàn ông sửng sốt trước thái độ này của cậu, bà cụ thì buồn cười: "Thằng bé này lạnh lùng vậy đó, không phải buôn bán làm ăn đâu mà chỉ đổi tiền tiêu vặt thôi."

Gã đàn ông lặp lại: "Một vạn ba mà không bán thật à? Nếu thay bằng người khác có khi đến cả một vạn cũng không trả ấy chứ."

Kỷ Thận Ngữ phẩy tay, bày vẻ mất kiên nhẫn lên mặt. Gã đàn ông đứng dậy đi mất, bà cụ và đám người hóng hớt cũng đi luôn. Đôi mắt cậu dõi theo người đàn ông nọ, thấy đối phương như đi tản bộ, thi thoảng dừng lại, song không hề cúi người xuống.

Lòng cậu đã nắm chắc, việc quầy vắng người chỉ là tạm thời mà thôi.

Nắng giữa trưa là độc nhất, máy điều hòa của Cục Di sản văn hóa vẫn chưa ngừng chạy, điện thoại đổ chuông, phó cục trưởng gửi tài liệu sang, Đinh Hán Bạch vào văn phòng chủ nhiệm cầm một chuyến, lại vòng ra chuyến nữa, khi về thì ngồi tại chỗ hóng mát.

Sau khi khô mồ hôi rồi hắn mới hỏi: "Tổ trưởng ơi, chủ nhiệm nghỉ ạ?"

Trương Dần không đi làm, đích thân ra sân bay đón chuyên gia về, sắp đặt cho chuyên gia xong vẫn chưa về, bèn nghỉ việc một cách chính đáng. Về phần bây giờ thì đang nhàn nhã dạo quanh chợ đồ cổ Đồi Mồi.

Trong chợ này, 99% là đồ rởm, nhưng ai nấy đều muốn kiểm lậu(*) hết, Trương Dần đi dạo một vòng rồi vòng về, lại đứng thẳng trước mặt Kỷ Thận Ngữ. Hiện vật vớt dưới biển, gã vừa mang về cả một lố từ Phúc Kiến đấy thôi, những hiện vật trưng bày ở viện bảo tàng toàn do gã chọn lựa cả.

(*Kiểm lậu: Tiếng lóng trong giới đồ cổ, chỉ hành động dùng giá tiền rất rẻ để mua được đổ cổ đáng giá và người bán thường không biết rõ giá trị của món đồ đó; người mua có thể bán đi với giá trị thực sự, qua đó một bước trở nên giàu có.)

Điều đó chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ là gã không hề nhìn lầm được. Gã rất chắc chắn, rằng đáy bình, cổ bình và miệng bình toàn từ một khuôn mà ra, giống y như thứ mà gã đã từng trông thấy. Thêm cả mùi đi kèm thì gã càng khẳng định, bởi gã không thể nào quên đi được thứ mùi tanh của biển đó.

Kỷ Thận Ngữ liếm que kem, ngửa đầu không lên tiếng.

Thường thì người nghèo gặp khó khăn cần dùng tiền gấp là dễ ép giá nhất. Kỷ Thận Ngữ thì ngược lại, quần áo chỉn chu, trên túi sách treo mặt dây chuyền bằng đá Hổ Phách lâu đời, uống lon nước ngọt xong còn ăn kem, giả làm thằng con phá của trộm đồ cổ để đổi tiền tiêu vặt, tiền ít thì lười phản ứng.

"Ba vạn không hạ giá, thì chắc chắn bình này sẽ chẳng bán được khỏi tay nhóc cho xem." Rốt cuộc Trương Dần cũng mở miệng, "Nhóc nghĩ lại xem lời tôi nói có đúng không?"

Kỷ Thận Ngữ đáp: "Vậy một vạn ba đi." Nói xong, thấy vẻ mừng rỡ của Trương Dần, lại nói, "Anh giai à, tôi không kém thông minh vậy đâu, anh đừng có mơ."

Hai người bắt đầu cò cưa, lùi một bước bèn bớt thành một vạn tám ngàn tệ. Một vạn ba nọ của Trương Dần đúng là vô lý, nhưng thấy Kỷ Thận Ngữ còn nhỏ tuổi nên gạt thế thôi, ba vạn đó của Kỷ Thận Ngữ cũng là rao giá quá cao, lường trước để lại không gian chém giá.

Hai người không ngừng cãi cọ, dẫn người khác đến hóng. Trương Dần sợ bị cuỗm tay trên nên cuối cùng xác định là hai vạn ba nghìn. Kỷ Thận Ngữ chỉ cần tiền mặt, đeo cặp đi lấy tiền với Trương Dần. Bên cạnh chợ đồ cổ có một ngân hàng, vì để tiện cho mọi người giao dịch.

Giao nhận trong ngân hàng rất an toàn, đưa bình sứ xanh cho đối phương, Kỷ Thận Ngữ bèn đeo cặp rời đi. Khi đi qua một ngõ đường thì nghe thấy tiếng hò hét, ngay sau đó có một người chạy ra, chạy vồn vã sượt qua cánh tay cậu.

Giữa tường chợ đồ cổ và ngân hàng có một ngõ tắt, bên trong bày đầy quầy hàng, những nhà bán lẻ bán hàng trong ngõ, một ông cụ cầm chiếc bao cũ ngã bên chân tường, mặt dính máu, cuộn người khàn giọng, gào khóc.

Cướp bóc giữa ban ngày ban mặt! Tiền cứu mạng mất rồi!

Khắp ngõ nhỏ nháo nhác cả lên, Kỷ Thận Ngữ đứng ngay đầu ngõ, bèn quẳng cặp sách xuống bắt đầu chạy, đuổi theo tên cướp kia. Tên cướp bị cậu đuổi theo đến là luống cuống, nên lên cầu vượt thì không đi, cứ chạy thẳng ra phía đường.

Kỷ Thận Ngữ tận mắt thấy hai cảnh sát giao thông đẩy ngã tên cướp, bao đồ rơi xuống đất phát ra tiếng vỡ vụn, lòng cậu cũng tan nát theo.

Cậu lấy được bao đồ về, nhưng bình trụ vuông tai voi xanh biếc đã vỡ tan thành mảnh nhỏ, mang về thì thấy ông cụ đang ngồi trên bậc thềm ngoài ngân hàng. "Ông ơi..." Cậu bước qua, không biết nói thế nào nữa, "Tên đó ngã."

Mở bao đồ ra, ông cụ lắc đầu trước mảnh vỡ, máu loang lổ trên mặt, ôm bụng hơi run rẩy. Kỷ Thận Ngữ vội đỡ ông dậy rồi hỏi: "Lúc gã cướp đồ đã làm ông bị thương ạ? Ông có cần đi bệnh viện không?"

Lúc này có một người đi ra từ ngân hàng, tức thì đi đến trước mặt họ: "Đồ đâu?"

Đây là có người ưng muốn mua, ngay khi đối phương đi lấy tiền thì lại gặp cướp. Kỷ Thận Ngữ bĩu môi với bao đồ, lòng cũng nhói theo. Tuy cậu không có hỏa nhãn kim tinh, song cậu biết làm giả sẽ có sơ hở gì, chiếc bình trụ vuông đó không có bất cứ tì vết nào, ít ra cũng phải bảy, tám vạn.

Đối phương nổi giận: "Đã bảo đợi tôi đi rút tiền rồi cơ mà, sao lại thành ra như vậy? Ông đền đi!"

Ông cụ buồn bã: "Tôi không đền nổi..."

"... Đệch cụ nhà ông!" Đối phương chửi ầm lên, kẻ si mê đồ cổ, trong mắt chỉ có đồ vật, mỡ dâng đến miệng lại để rớt, chỉ ước gì lục thân không nhận, không thèm nói lý.

Kỷ Thận Ngữ lau máu mũi cho ông cụ. Cậu không rành chửi người, bèn không khỏi nhớ đến Đinh Hán Bạch. Đợi đến khi người nọ chửi xong rồi đi, cậu mới đỡ ông cụ ra đường gọi xe, đã làm người tốt thì làm đến cùng, bèn đi bệnh viện một chuyến luôn.

Kiểm tra xong, trừ vết thương ngoài đi, thì hóa ra ông cụ còn mắc bệnh ung thư nữa.

Kỷ Thận Ngữ đã hiểu "Tiền cứu mạng" là gì, khi nộp tiền nhập viện thì không hề chần chừ, cộng thêm cả những chi phí cần trả là hai vạn ba bay hơn nửa. Cậu ngồi trông nơi giường bệnh, vắt khăn lau mặt cho ông cụ, lau mặt xong thì đến lau tay, phát hiện ra tay phải của ông cụ có sáu ngón.

"Ta họ Lương, Lương Hạc Thừa." Ông cụ nói, "Khi sinh ra đã có bàn tay sáu ngón, không làm cháu sợ chứ?"

Kỷ Thận Ngữ lắc đầu: "Ông à, cháu liên lạc với người thân của ông thế nào được ạ?"

Ông cụ đáp: "Người neo đơn, cháu không phải quan tâm đến ta đâu."

Kỷ Thận Ngữ lặng thinh một lát, bèn móc hết số tiền còn lại ra, tự giữ lại cho mình ba trăm rồi nhét số còn lại xuống dưới gối: "Ông ơi, cháu ở cùng ông đến tối, tiền thì ông cứ giữ lấy mà tiêu."

Ông cụ rơi nước mắt: "Sao ta có thể muốn tiền của cháu được, ta còn phải trả tiền phí nằm viện cho cháu nữa mà..."

"Sư phụ cháu nói –" Nếu hỏi lại phải giải thích, Kỷ Thận Ngữ bèn sửa lời, "Bố cháu nói, nhiều tiền nhiều bạc dùng hết còn kiếm lại được, nhưng có việc mà không giúp, bỏ lỡ là sẽ hối hận."

Ông cụ lại hỏi: "Thằng nhóc cháu đây, sao mang nhiều tiền theo người như vậy?"

Đối phương đã quá đáng thương, Kỷ Thận Ngữ không đành lòng lừa gạt bèn kể hết chuyện mình làm bình sứ xanh ra, nhoáng cái đã ở bên đối phương đến tận tối, bên ngoài trời chiều đã ngả.

Cậu chào tạm biệt, đeo chiếc cặp trống trơn đi bắt xe, trong đầu chiếu cảnh phim, hết cảnh này chuyển sang cảnh khác, chiếu đến cuối thì chỉ còn hụt hẫng. Cậu xuống xe tại trạm Phủ Trì Vương, sau khi xuống xe bèn gặp Đinh Hán Bạch ở đầu phố. Đinh Hán Bạch hội họp về, người vương mùi rượu thoang thoảng.

Rốt cuộc Kỷ Thận Ngữ cũng đã thấy người thân, nếu không tính là người thân thì cũng là người quen.

Bận rộn suốt nhiều ngày đến vậy, đến tận giờ ngón tay vẫn còn đau, kết quả chỉ còn mỗi ba trăm tệ.

Cái này gọi là gì nhỉ, gọi là giỏ tre múc nước cũng bằng không.

Kỷ Thận Ngữ ấm ức dữ dội: "Sư ca ơi..."

Đinh Hán Bạch ngớ người, nghĩ thầm ủa chẳng phải hai đứa vừa cãi nhau xong, đang chiến tranh lạnh à? Mình nhớ là chưa làm lành mà ta, hay mình say rồi? Đương lúc ngẩn người đó, Kỷ Thận Ngữ đã chạy lại, ngửa đầu, tròn mắt, như đang đòi hắn an ủi.

Bàn tay hắn đặt lên gáy người ta, lần này thì biết chừng mực hơn, khẽ khàng vuốt, chậm rãi hỏi: "Sao thế?"

Kỷ Thận Ngữ tự thấy xấu hổ, mặt lộ vẻ lúng túng: "Em không tặng quà cho anh được rồi."

Đinh Hán Bạch không dự đoán được nguyên nhân này, bèn nói mà không cho thương lượng: "Thế thì không được, cậu đã cam đoan rồi, giờ tặng luôn đi, bảo cậu tặng gì thì cậu tặng nấy."

Kỷ Thận Ngữ luống cuống, đợi đối phương làm khó cậu.

Kết quả Đinh Hán Bạch lại bóp mạnh (lên gáy) một phen: "Thôi, cậu cứ cười đại một cái đi."

Editor: Các cô thử đoán xem, Lương Hạc Thừa sẽ là ai:">

*Chú thích:

1. Bình sứ xanh:

Chương 14: Giật mình

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 14: Giật mình

Phố Sát Nhi là một con phố cũ, đèn đường không được rõ, làm bóng người đổ thật dài, hắt một quầng sáng nhạt lên nụ cười trên gương mặt người. Kỷ Thận Ngữ cười đến là mất tự nhiên, răng trắng he hé, song độ cong khóe miệng không giống như lúc thường.

Cậu sóng vai bước về với Đinh Hán Bạch, từng mét một, từng bước một, đến bậc thềm cổng chính, đi qua tiền viện để về tiểu viện, rảo bước tới ngoài phòng ngủ, cả hai đồng thời đứng tại chỗ, xoay mặt đối mắt cùng nhau.

Trời lặng gió, mùi hương hoa Đinh Hương bị khóa trong không khí, che giấu mùi rượu thoảng trên người Đinh Hán Bạch, "Đi ngủ sớm đi, quà tính là cậu tặng rồi." Đinh Hán Bạch nói, "Anh biết săn sóc đấy chứ?"

Kỷ Thận Ngữ đã đẩy cửa phòng ra, trả lời: "Săn sóc ạ... Cảm ơn sư ca."

Nào ngờ Đinh Hán Bạch chêm thêm: "Không cần, sau này cứ bớt cãi bướng với anh đi."

Ai nấy về phòng mình, Đinh Hán Bạch vẫn không hay Kỷ Thận Ngữ bế quan làm gì, cũng chẳng hiểu hôm nay ủ rũ là bởi vì sao. Mà Kỷ Thận Ngữ cũng nhận lỗi rồi, còn chúc ngủ ngon, tóm lại là tạm gác hiềm khích lúc trước.

Trăng lặn mặt trời ló, Đinh Hán Bạch suýt nữa đi muộn, bữa sáng ăn ngấu ăn nghiến, vừa cựa quậy cái là làm rơi bánh bao của Kỷ Thận Ngữ. Khi đến đơn vị vẫn bị muộn, muộn thì muộn thôi, quá lắm là bị Trương Dần móc mỉa mấy câu.

Đinh Hán Bạch đã chuẩn bị tinh thần bị phê bình, kết quả Trương Dần bưng tách trà dạo bước trong văn phòng, sau đó đứng bên cửa sổ hóng gió, cứ như nhà có việc mừng vậy. Hắn cúi đầu ngồi xuống bàn làm việc, một lát sau thấy vai nặng xuống, ngẩng đầu đối diện với gương mặt tủm tỉm của Trương Dần.

"Có chuyện gì?" Đinh Hán Bạch bồn chồn, hôm nay cái tên này tốt dị thường.

Trương Dần hỏi hắn: "Chẳng phải cậu bốc phét bảo sải bước cái là vào được giới đồ cổ à? Vậy đi mấy chợ đồ cổ trong thành phố chưa?"

Mới lạ ghê nhỉ, Đinh Hán Bạch đáp: "Đi rồi, còn chẳng cần vé vào cửa kia mà."

Trương Dần trưng bản mặt khiêu khích trời sinh, khiến người ta ghét: "Vậy cậu tìm được bảo bối gì chưa?"

Đinh Hán Bạch trả lời: "Chỗ đó chẳng có hàng thật đâu." Hắn đã hiểu ra, tên này có chuẩn bị mới hỏi, chắc là kiểm lậu* đây mà. Quả nhiên, Trương Dần vỗ vai hắn, ngoắc tay bảo hắn đi theo.

(*Từ này được giải thích ở chương trước, tôi mới bổ sung lại.)

Cửa văn phòng chủ nhiệm vừa đóng lại thì Đinh Hán Bạch đã thấy chiếc bình sứ xanh đặt giữa bàn. Trương Dần trưng vẻ khoe mẽ, đợi nghe hắn nói một câu "Bội phục". Hắn khom người cúi xuống bàn, soi tỉ mỉ ở mọi góc, Trương Dần đưa đèn cực tím cho hắn, còn nói như thể đã nhẩm tính trước: "Đừng bốc phét suốt ngày nữa, dùng hàng thật ra mà nói."

Đinh Hán Bạch nhìn không rời mắt, quên cả việc tranh cãi.

"Thế nào?" Trương Dần ép hỏi, "Nhìn ra hàng thật hay giả không?"

Đinh Hán Bạch nhìn ra được, kiểu dáng và chữ khắc đều qua cửa, vết bẩn trên bề mặt là bằng chứng hùng hồn, chứng minh đây là bình sứ xanh triều Thanh vớt dưới biển lên. Nhưng hắn cũng xoắn xuýt, bởi chẳng hiểu sao mà hắn cứ thấy quen mắt, hình như đã trông thấy ở đâu đó rồi.

Đương nhiên hắn đã từng thấy, bởi đây chính là đám đồ sứ vỡ mà hắn đã vứt đi không cần đến nữa.

Đương nhiên hắn vẫn chưa từng thấy cái bình này, bởi Kỷ Thận Ngữ giấu kín như bưng, trước khi rời tay thì kín đáo không chừa kẽ hở.

Trương Dần huênh hoang đủ thì đuổi người đi, Đinh Hán Bạch đứng thẳng người đi ra ngoài, lúc kéo cửa ra còn ngoái đầu lại hỏi: "Anh tìm ở chợ đồ cổ nào thế? Người bán là ai?"

"Đồi Mồi." Trương Dần đáp, "Người bán là một thằng nhóc con phá của, đổi được tiền tiêu vặt xong thì chắc sẽ không đến nữa, cậu không đuổi kịp đâu."

Đến tận lúc tan tầm, lòng Đinh Hán Bạch vẫn đau đáu về cái bình hoa nọ, chẳng phút giây nào vơi. Sao cứ để Trương Dần kiếm được vậy nhỉ? Hắn cáu, cáu đến nỗi suýt nữa đã vượt đèn đỏ.

Song, lòng hắn lại nghi ngờ, đó thật sự là hàng tốt à? Hắn vẫn muốn nhìn lại lần nữa, khó chịu mà nghĩ ngợi.

Ngược lại, Trương Dần thì phơi phới, chạy vội đến khu Sùng Thủy cũ, loanh quanh trong một khu nhà trệt xập xệ, bức tường màu xám tro loang lổ chèn trong ngõ nhỏ, biển trước từng nhà đã rỉ sét. Một chiếc xe ba gác dừng trước cửa nhà 57, trên xe chất đầy phế phẩm, vào cửa là không có chỗ nào để đặt chân, khắp tiểu viện cũng toàn là phế phẩm, chật chội không chịu được.

Chiếc rèm bông treo mùa đông vẫn chưa gỡ xuống, Trương Dần xốc nó lên rồi bước vào: "Có ở nhà không?"

Nhà hai căn phòng, một ông cụ mặc áo cộc từ phòng đi ra, không lên tiếng cũng chẳng nhìn người, chỉ xoay người khóa cửa trước. Trương Dần tìm ghế ngồi xuống, cất giọng mỉa mai: "Đề phòng con trai ruột cứ như đề phòng phường trộm cướp ấy nhỉ, ông làm vậy có mệt không?"

Ông cụ xoay người lại, thật ra không tính là già quá, cùng lắm thì mới sáu mươi, tóc xơ cứng, hoàn toàn đã tức sùi bọt mép. Da thịt không nhăn nheo, trông vẫn khỏe khoắn, chẳng qua mắt trái bị vẩn đục, khép hờ, mù.

Người ta gọi ông là ông Trương mù, chứ chẳng ai biết tên thật của ông là Trương Tư Niên.

"Tan tầm qua chỗ bố, mày không mệt à?" Lúc này Trương Tư Niên mới trả lời, đi đến bên giường vừa rửa tay vừa hỏi, "Có gì làm à, bán phế phẩm hả?"

Trương Dần nghe "Phế phẩm" mà cáu, bèn quẳng luôn mục đích đến, đứng dậy mắng: "Sống tại cái xó xỉnh rách nát này đi nhặt đồ phế phẩm, ông vất mặt mũi tôi đi đâu? Ngoài chất đống phế phẩm, trong thì toàn đồ rởm, tôi xem sau tám mươi ông không đẩy xe được nữa thì làm thế nào?!"

Trương Tư Niên nhấc mí mắt đã đục mờ, bày hình dáng của con mắt mù: "Chẳng làm sao cả, đợi bố mất rồi, nếu mày thích thì cứ đẩy xe đưa cái đống này ra ngoài đồng dưới chân núi mà chôn, thế là xong."

Thấy sắp sửa cãi cọ, Trương Dần bèn tạm rút lui, lấy chiếc bình sứ xanh từ trong bao ra, dưới ánh sáng nhập nhèm đổi chủ đề khác: "Xong hay không thì ông cứ xem cái bình này đã."

Trương Tư Niên đứng ngay tại chỗ: "Chỉ xem thôi à?"

Trương Dần bật cười: "Tôi muốn đổi lư hương gốm Ge."

(*Gốm Ge: Là một loại men ngọc hoặc đồ xanh trong đồ gốm Trung Quốc – một trong năm dòng "danh sứ" celadon ngự dụng thời nhà Tống, cũng có thể gọi là gốm Ca Diêu. Là loại gốm Celadon có men phủ xám trắng và hoa văn rạn khá chặt, có nguồn gốc từ tỉnh Triết Giang vào thế kỷ 13- 15. Các phiên bản sản phẩm copy xuất hiện ngay sau giai đoạn này và trở thành phổ biến đặt biệt vào đầu thế kỷ 20, lúc này thường kết hợp với hình thức có viền rìa không phủ men hoặc khắc chạm chìm.)

Gã nhất định phải có được, một năm rưỡi đến ba chuyến, ba món đồ tiêu tốn hết tiền tích góp bốn, năm năm, đều bị đối phương quẳng ra cửa bằng một câu đồ rởm. Giờ thì khác, gã tin rằng gã phải khiến ông già này đi mở cửa phòng ra mà chẳng hó hé được gì.

Quả nhiên Trương Tư Niên chẳng hó hé gì thật, cầm chiếc chìa khóa đi mở cửa. Trương Dần nhìn tấm lưng kia mà nổi cơn tức, giọng đầy căm hờn: "Chột mắt mà vẫn nhìn ra được thật giả, nếu là người khác thì đã sản nghiệp trăm vạn, ông thì hay rồi, đi gom phế phẩm!"

Khóa đã mở, Trương Dần đứng dậy đi đến ngoài cửa, bên trong là một chiếc giường đơn, một cái bàn, trừ mấy thứ này ra thì toàn là đồ cổ cả. Gã mở mang tầm nhìn, cũng tức đỏ cả mắt, chẳng phân biệt được thật hay giả, cảm thấy Trương Tư Niên như một ông già tâm thần.

Trương Tư Niên mở ngăn kéo lấy một chiếc lư hương cao mười xen-ti-mét, lúc đưa còn hỏi: "Lấy ở đâu đấy?"

Trương Dần đáp xong thì đi: "Bán hay giữ tùy ông."

Rèm vén lên rồi rũ xuống, ánh sáng tiến vào rồi bị chặn ở bên ngoài, Trương Tư Niên đi đến trước bàn tiện tay đặt bình sứ xanh xuống, tiện y như đặt cốc nước hay đặt đũa vậy. Ông nhắm mắt, nhìn không ra là bị mù, đánh nhịp ngâm nga khúc nhạc Kinh kịch "Mượn gió Đông."

Cuối cùng là ngâm đoạn độc thoại: "... Trẻ nhỏ khó dạy."

Đang cuối tuần, Đinh Hán Bạch hiếm lắm không ngủ đến khi mặt trời lên cao, Đinh Duyên Thọ đi giảng bài cho bọn sư huynh đệ. Khi bốn người khác đương tề tựu thì hắn lái xe đến cổng chợ đồ cổ.

Đinh Hán Bạch đeo kính râm, quần Âu chẳng hề có lấy một nếp gấp, chiếc đồng hồ Thụy Sĩ trên cổ tay lập lòe. Cái dáng điệu này của hắn là hấp dẫn người bán nhất – Lắm tiền, người ngoài giới, dễ lừa.

Hắn đi như không có mục đích, nhưng thật ra đôi mắt phía sau tấm kính như máy quét hình, trong lòng trong đầu toàn là chiếc bình sứ xanh nọ, đã chuẩn bị tinh thần tìm nó trong hàng trăm ngàn đồ vật rồi. Hắn suy nghĩ nửa đêm, cái bình đó có cảm giác rất đỗi quen thuộc, không chừng là cùng một nhóm đồ giống nhau.

Hiện vật trục vớt dưới biển có nhiều loại, vậy rất có thể không chỉ có mỗi một bình được.

Người cuối tuần rất đông, dần dà trong chợ đã bày đầy hàng, Đinh Hán Bạch dạo mấy lượt thì rời đi, không phát hiện ra "Nhân vật khả nghi" nào. Rẽ vào một ngõ nhỏ, ngõ chật hẹp, kẻ ngồi bán, người ngồi xem, không có chỗ đặt chân.

Cuối ngõ có chỗ râm mát, một ông già đeo kính râm ngồi đằng kia, trước mặt là một bộ đồ mùa thu đã cũ, trên đồ là chiếc bình sứ xanh. Đinh Hán Bạch bắt gặp được thì không qua ngay lập tức mà giả vờ nấn ná ở hàng quán khác, lê bước đủ rồi mới đi đến cuối.

Hắn gỡ kính râm xuống, "Ngồi dưới bóng râm mà còn đeo kính."

"Mắt khó chịu, không thích nhìn ánh sáng." Ông cụ đáp. Ông già này chính là Trương Tư Niên.

Đinh Hán Bạch vén ống quần ngồi xổm xuống, cầm chiếc bình bắt đầu ngắm. Đó giờ hắn chẳng bày vẻ hòa nhã gì, giờ mặt còn bình tĩnh hơn. Nhưng, mặt nhìn thì bình tĩnh thế chứ nội tâm thì cuộn sóng.

Hắn chẳng có cái tài đã gặp qua là không thể quên được, nhưng hôm qua mới vừa nhìn thấy cái bình của Trương Dần, nên không đến nỗi quên ngay.

Nhưng dù đúng là cùng một lò mà ra thì cũng không thể đến cả vị trí bàn quản trùng(*) cũng giống nhau được chứ?

(*Bàn quản trùng là tên một loại bọ, là chủng loại đặc biệt ở Trung Quốc. Vì không tra ra được thông tin gì hay ho nên tôi để hình ở bên dưới chú thích.)

Trương Tư Niên rút thuốc lá ra hút, đợi Đinh Hán Bạch đặt câu hỏi, dù có hiểu hay không cũng hỏi. Đinh Hán Bạch như thể người câm, lật qua lộn lại để xem. Hắn hơi choáng, bình của Trương Dần giống cái đống đồ vỡ ở nhà, còn cái bình này lại giống của Trương Dần.

Có người dạo đến chỗ này cũng muốn nhìn, hắn không buông tay, hỏi thẳng, "Bao nhiêu?"

Người bán nào mà chẳng thích kẻ lắm tiền? Trương Tư Niên xòe ba ngón tay ra, ba vạn.

Đinh Hán Bạch không mặc cả, lại hỏi: "Trôi từ Chiết Giang đến à?" Một chữ "Trôi" này đã chứng tỏ hắn hiểu đây là đồ vớt dưới nước, nhưng nơi hắn hỏi không phải Phúc Kiến, mục đích là để gạ hỏi nguồn gốc.

Trương Tư Niên cúi gằm liếc hắn từ cặp kính, một cái nhìn ngay thẳng, đáp: "Phúc Kiến."

Đinh Hán Bạch không do dự nữa: "Bọc kỹ lại, tôi đi rút tiền."

Ngân hàng ở ngay bên cạnh, hắn rút tiền xong thì tiền trao cháo múc với người ta. Trước khi đi, hắn thấy Trương Tư Niên mỉm cười với hắn, không phải kiểu cười mừng vì có được tiền, mà là cái kiểu... không nhịn được mà cười.

Hắn cũng cười theo: "Tôi là người bên viện bảo tàng thành phố."

Trương Tư Niên không ngạc nhiên: "Còn tôi là người thu phế phẩm."

"Vậy tháng này không cần bận bịu nữa, ba vạn chắc đủ tiêu rồi." Đinh Hán Bạch nói, "Thôi, bây giờ tôi còn phải tăng ca đây."

Hắn lấy xe, lái vội đến viện bảo tàng, dùng cái ơn khắc bức phù điêu Hán để tìm viện trưởng giúp đỡ, phải kiểm tra đo lường chiếc bình sứ xanh này. Đưa đi kiểm tra thì không phiền phức gì, song phải đợi kết quả những hai ngày trời. Hắn đo xong bèn đưa đồ về nhà.

Đúng vậy, Đinh Hán Bạch chi ba vạn ra, nhưng hắn không chắc thứ này là đồ thật.

Trương Dần đi Phúc Kiến mà chỉ mang về được cái đống đáy bát vỡ, loại đồ hoàn hảo đến nhường này phải là chính tỉnh Phúc Kiến giữ lại trưng bày chứ, dù có người tìm được cách mua một bình thì làm sao chỉ trong hai tháng mà đã đến một nơi cách hơn nghìn ki-lô-mét thế được?

Hắn phải đưa về nghiên cứu đàng hoàng mới được.

Nghiên cứu vẫn chưa đủ, cho nên hắn chỉ có thể chường mặt đi làm kiểm tra đo lường chuyên môn.

Đinh Hán Bạch về đến nhà, trong nhà chẳng có ai, đi Ngọc Tiêu Ký với Đinh Duyên Thọ cả rồi. Hắn vào thư phòng đặt bình sứ xanh lên bàn, lật mỉ mỉ quyển "Như núi như biển" nọ.

Đồng hồ chạy tích tắc, rõ là từ đầu đến cuối đã hỏng.

Tiếng trò chuyện vọng từ xa lại gần. Kỷ Thận Ngữ và Khương Đình Ân người nào người nấy cầm một lọ thuốc hít về. Dòng suy nghĩ rối ren trong đầu của Đinh Hán Bạch tiêu tán sạch, quyết định nghỉ một lát, nhìn xem hai đứa kia đang phấn chấn vì gì.

Ba người gặp nhau tại hành lang, Khương Đình Ân om sòm: "Anh cả ơi, dượng bảo bọn em khắc lọ thuốc hít, em chọn đá Điện Văn, khắc song cáp diễn khuyển."

(*Đá Điện Văn – Nguyên văn là 电纹石 – Tôi tìm không ra nên để nguyên, nhưng có vẻ là loại đá quý có vân hình dòng điện. Song cáp diễn khuyển là kiểu hình một con chó và hai con chim bồ câu, ảnh ở dưới chú thích.)

Đinh Hán Bạch liếc một cái: "Lão Hoàng nhà cậu hả?"

"Giống chứ!" Khương Đình Ân vừa vui vừa buồn, "Lão Hoàng đã chết một năm, em rất nhớ nó, vừa khắc vừa khóc." Cảm hứng mãnh liệt nên khắc rất sống động, Đinh Duyên Thọ ngợi khen một phen.

Đinh Hán Bạch nhìn Kỷ Thận Ngữ: "Của cậu đâu?"

Kỷ Thận Ngữ giơ tay dâng lên, lọ thuốc hít bằng phỉ thúy, khắc chim hoàng oanh ôm trăng. Cậu dịch đến trước người Đinh Hán bạch: "Đẹp không?"

Đinh Hán Bạch "Ừ" một tiếng, nhìn mãi không trả lại, sau đó Khương Đình Ân kể lể anh hai anh ba thế này thế nọ, hắn cũng chẳng thèm chú ý nghe. "Anh ơi, dượng bảo anh không được làm biếng nữa." Khương Đình Ân nhớ đến trọng điểm, "Đã cầm vật liệu về cho anh rồi, anh phải nộp bài tập đó."

Kỷ Thận Ngữ nghe vậy bèn lấy một miếng Bạch Ngọc ra: "Sư phụ bảo em chọn thay anh, Bạch Ngọc không tệ nhỉ."

Kế đó Khương Đình Ân đi tìm Khương Thải Vi, trên hành lang chỉ còn mỗi Đinh Hán Bạch và Kỷ Thận Ngữ. Kỷ Thận Ngữ đã ở bên ngoài cả ngày, muốn về phòng thay đồ, quay người lại thì bắt gặp cửa sổ đang mở của thư phòng, vừa khéo trông thấy chiếc bình sứ xanh trên bàn.

Cậu sửng sốt, nhào vào cửa sổ trợn mắt.

Cái bình này? Không thể nào! Kỷ Thận Ngữ vọt vào thư phòng, cái tư thế này khiến Đinh Hán Bạch bị giật mình. Cậu chạy đến trước bàn thì thấy rõ ràng, hoàn toàn xác định, hoa văn dính bẩn đó, đốm vàng vẩn đục đó... Đây chính là cái bình cậu đã bế quan ba ngày hai đêm để làm ra!

Đinh Hán Bạch chẳng hiểu mô tê gì: "Cậu kích động gì vậy?"

Kỷ Thận Ngữ khó tin được: "Thứ này từ đâu ra thế anh?"

"Chợ đồ cổ, vừa mua sáng nay." Đinh Hán Bạch không nói nguyên nhân, cũng không tỏ quan điểm thật hay giả. Huống chi không đợi hắn kịp nói thì Kỷ Thận Ngữ đã biến sắc, vì vậy hắn càng mờ tịt.

"Sư ca ơi..." Kỷ Thận Ngữ hỏi, "Mua hết bao nhiêu tiền?"

Đinh Hán Bạch thản nhiên: "Ba vạn."

Kỷ Thận Ngữ gần như gào lên: "Ba vạn á?!"

Cậu nào phải làm bình hoa, cậu đây là tạo nghiệt mà!

*Chú thích:

1. Lư hương gốm Ge:

Xem ảnh 1

Xem ảnh 2

3. Lọ thuốc hít:

Xem ảnh 3

4. Song cáp diễn khuyển:

Xem ảnh 4

Chương 15: Cậu thì hiểu cái quần

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 15: Cậu thì hiểu cái quần

Kỷ Thận Ngữ nằm trăn trở trên giường suốt đêm, lúc trời sắp sáng mới ngủ được, song vẫn ngủ không yên, cảnh trong mơ quấy rầy không ngừng.

Cậu mơ mình trở về Dương Châu, Đinh Hán Bạch la hét bảo muốn đi xem vườn cây, bèn tóm cậu chạy như bay cả dọc đường. Chạy mãi chạy hoài thì đứng dưới một cái cầu đá, rốt cuộc Đinh Hán Bạch mới buông cậu ra, bước lên cầu đá một mình.

Trên cầu có người bày rạp bán mấy món đồ, hoặc bán đồ ăn, chỉ duy một người là ngoại lệ, đi bán đồ gốm ba màu thời Đường. Đinh Hán Bạch tức thì bước qua, cầm con ngựa ba màu lên nhìn như của báu, hỏi bao nhiêu tiền.

(*Gốm 3 màu thời Đường được phát triển cách đây 1300 năm không chỉ thể hiện được vẻ đẹp dịu dàng và men mịn đầy màu sắc, mà còn thể hiện tính nghệ thuật cao và là báu vật văn hóa Trung Hoa. Người ta gọi là "ba màu" bởi vì gốm ba màu thường dùng ba màu men là vàng, xanh lá cây và trắng. Sau khi được nung trong nhiệt độ cao, men ba màu hòa vào nhau và trở thành nhiều màu sắc, gây cho người xem một thị giác rực rỡ nhiều màu. Tuy nhiên, một số mẫu vật vẫn mang hai màu hoặc bốn màu. Ngoài ra, các sản phẩm gốm còn được phủ một lớp nước men lên trên. Những đồ gốm này nổi tiếng với màu sắc rực rỡ của nó và được giới quý tộc sử dụng như vật trang trí trong nhà và thậm chí được dùng để mai táng người chết.)

Kỷ Thận Ngữ nói ngay: "Sư ca ơi, mình ngồi thuyền nhé?"

Đinh Hán Bạch lờ cậu đi, hưng phấn nghiên cứu con ngựa sặc sỡ nọ: "Tôi muốn mua, gói lại đi."

Kỷ Thận Ngữ xách đối phương dậy, rỉ tai hắn: "Cái thứ làm ẩu tả như này anh mua làm gì? Anh muốn hàng tốt nào, em bảo sư phụ tặng cho anh."

Đinh Hán Bạch nheo mắt nhìn cậu: "Cậu thì biết cái quần, đây là gốm ba màu thời Đường, anh có thể giám định thật hay giả."

Kỷ Thận Ngữ không ngăn cản được, còn bị đẩy sang một bên. Cậu thấy Đinh Hán Bạch sắp bỏ tiền ra, bèn thầm nghĩ coi như mua một bài học là được. Nào ngờ túi quần Đinh Hán Bạch như thể không đáy, hết xấp tiền này đến xấp tiền khác, khiến cậu hoa cả mắt.

"Gượm đã!" Cậu xông lên hỏi người bán hàng rong, "Bao nhiêu tiền vậy ạ?"

Người bán hàng rong trả lời: "Ba vạn."

Kỷ Thận Ngữ tóm lấy cái tay chi tiền của Đinh Hán Bạch: "Anh điên rồi à?!"

Đinh Hán Bạch đẩy cậu ra, sau khi móc đủ ba vạn thì ôm ngựa xuống cầu. Kỷ Thận Ngữ đuổi kịp, chân nhũn mém tí nữa đã ngã vào sông, nhoáng cái lại về nhà, cậu bắt gặp Kỷ Phương Hứa đương viết lên quạt ở vườn hoa.

"Sư phụ..." Cậu gọi.

Kỷ Phương Hứa ngẩng đầu nhìn cậu, ngoắc tay bảo cậu ngồi một bên. Trên mặt quạt là một cây đào, bút đặt vào tay cậu, Kỷ Phương Hứa muốn cậu viết chữ, cậu bèn viết: Hoa đào vẫn đó, cười chào gió xuân*.

(*Đây là một câu thơ trong bài Đế đô thành Nam của Thôi Hộ, bản dịch của Trần Trọng San.

Toàn bộ bài thơ:

Cửa này, năm ngoái, hôm nay,

Hoa đào phản chiếu mặt ai ửng đào.

Mặt người giờ ở nơi nao?

Hoa đào vẫn đó, cười chào gió xuân.)

Kỷ Thận Ngữ hơi ngẩn ngơ: "Sư phụ à, con cảm thấy đã lâu rồi không được gặp người."

Kỷ Phương Hứa vẩy quạt cho khô mực: "Vậy ta cũng không cảm thấy con nhớ ta, chạy đi đâu chơi thế?"

Kỷ Thận Ngữ bỗng nhớ ra: "Con đi dạo với Đinh Hán Bạch, anh ấy tiêu ba vạn chỉ để mua một con ngựa gốm ba màu giả, vậy phải làm sao bây giờ ạ?" Cậu lay Kỷ Phương Hứa, "Bác Đinh có nổi giận, trách con không trông nom anh ấy cho tốt không? Nhưng con không cản được, con không biết anh ấy lại ngốc kinh hồn thế."

Kỷ Phương Hứa dỗ cậu: "Vậy chúng ta lấy ngựa gốm ba màu thật để tráo với cậu ta nhé?"

Kỷ Thận Ngữ tức thì đồng ý, đỡ Kỷ Phương Hứa về phòng nghỉ, đi được một đoạn thì nhận ra quên lấy cái quạt, vì vậy cậu bèn vòng về lấy. Lúc quay lại, Kỷ Phương Hứa đã biến mất tăm, đã không còn tìm thấy giọng nói hay dáng hình nữa.

"Sư phụ..." Cậu gọi.

Khi gặp gọi, lúc chia tay cũng gọi, không nhận ra lúc gặp là thật, hay lúc này mới là thật.

Lúc Kỷ Thận Ngữ tỉnh giấc thì người túa đầy mồ hôi, gió lùa vào từ cửa sổ, lạnh đến nỗi cậu run cầm cập mãi không thôi. Giấc mơ này vừa hài hước vừa khắc khoải, cậu không kịp nhớ đến chuyện Đinh Hán Bạch mua ngựa, mà chỉ nhớ đến câu nói nọ của Kỷ Phương Hứa – Vậy ta cũng không cảm thấy con nhớ ta.

Phải chăng Kỷ Phương Hứa đang trách cậu?

Nghĩ rồi nghĩ, trời đã sáng tỏ. Kỷ Thận Ngữ vừa suy nghĩ vừa đi xếp chăn quét phòng, tưới hoa, còn lau cả lan can ngoài hành lang. Lau xong thì ngồi ngay đó, cầm khăn ướt nhỏ tí tách thành một vũng nước.

Đinh Hán Bạch thức dậy đi ra ngoài: "... Anh tưởng cậu đi tiểu chứ."

Bao suy nghĩ đã đứt đoạn như vậy, Kỷ Thận Ngữ tạm thời gác chuyện Kỷ Phương Hứa xuống, trong đầu nảy lên việc tên ngốc này đi mua ngựa. Cậu kéo Đinh Hán Bạch đi thẳng đến thư phòng, đến trước bàn thì chỉ vào chiếc bình sứ xanh rồi hỏi: "Người bán cho anh là ai?"

Đinh Hán Bạch dụi mắt: "Một ông già."

Ông già? Kỷ Thận Ngữ thấy nghi nghi, chẳng lẽ gã đàn ông đó đã chuyển nhượng nhanh vậy sao? Đinh Hán Bạch gỡ tay cậu ra, hỏi: "Cậu thích hả? Hôm qua cứ như lên cơn động kinh ấy."

Kỷ Thận Ngữ không giải thích được: "Sư ca, tại sao anh lại tốn mất ba vạn để mua món đồ này, anh chắc chắn cái này không phải hàng nhái à?"

Đinh Hán Bạch đáp: "Nói ra rất dài dòng, lười kể cho cậu nghe." Hắn đi rửa mặt, toan xoay người thì bị đối phương cản. Ánh nhìn Kỷ Thận Ngữ đầy khẩn thiết, giang tay ra ước gì có thể chặn ngang ôm hắn lại, giờ đến phiên hắn thấy khó hiểu.

Hắn lách ra: "Trẻ ngoan không ngáng đường, tránh sang một bên đi."

Kỷ Thận Ngữ ôm hắn lại thật, như khuyên như can: "Sư ca ơi, đừng lười nói với em mà, anh kể cho em nghe được không?"

Đinh Hán Bạch cụp mắt đối diện với mắt Kỷ Thận Ngữ, thấy vô cùng bối rối, bèn cậy mạnh đẩy người ra, bước mấy bước là ra khỏi thư phòng. Hắn rửa mặt xong thì xách bình tưới hoa bằng nhôm ra tưới thì nhận ra hoa Đinh Hương của hắn đã được tưới rồi, vừa nhấc đầu lên thì thấy Kỷ Thận Ngữ đang đứng trên hành lang, nom chẳng được vui tươi bằng Lâm Đại Ngọc.

Hắn đành nhận thua: "Cái bình này giống đống sứ vỡ vớt dưới biển mà anh đã mang về lúc trước, nhưng dự đoán về nguồn gốc không đúng, cho nên anh mua về nhìn cho kỹ. Hiện giờ anh có cảm giác nó là đồ giả cổ*, và còn đưa đi kiểm tra rồi, đang chờ kết quả."

(*Đồ giả cổ nôm na là người ta làm giả các đồ cổ và yêu cầu tay nghề của thợ làm đồ giả cổ phải cao, tỉ mỉ và công phu.)

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Kiểm tra thế nào ạ? Chuyên gia giám định ư?"

Đinh Hán Bạch đáp: "Đương nhiên là không, nghề này như một canh bạc, chưa chắc chuyên gia đã không mắc lỗi. Kiểm tra tức là một dụng cụ đo lường thuộc cơ quan chuyên môn của quốc gia, ví dụ như dựa vào độ chính xác của dải màu để phân biệt khu vực phục chế và làm giả."

Kỷ Thận Ngữ giật mình, cứ như thể mình gian dối bị bắt quả tang, cậu lại tò mò: "Vậy chẳng phải nhân viên nội bộ luôn biết được thật hay giả, nên sẽ phát tài hay sao?"

Đinh Hán Bạch cười nói: "Sao vậy được, kiểu kiểm tra này chỉ cho Cục Di sản văn hóa quốc gia dùng thôi, ví dụ như các viện bảo tàng nhận được đồ mới, không được phê chuẩn thì sẽ không thể tiến hành. Anh đến tìm viện trưởng để nói chuyện, ký giấy cam kết, hứa nếu món đồ là thật thì sẽ giao cho viện bảo tàng để trưng bày cùng đống đồ hiện vật vớt dưới biển, thế mới được."

Kỷ Thận Ngữ gật đầu, cậu đã biết kết quả kiểm tra rồi, bèn kìm lòng không đặng gặng hỏi: "Nếu là giả thì sao ạ?"

"Giả thì cứ chấp nhận thôi." Đinh Hán Bạch chẳng thèm để tâm.

Kỷ Thận Ngữ lại hỏi: "Anh không trách người làm giả ạ?"

Đinh Hán Bạch không đáp, lúc này Khương Thải Vi vào gọi họ ra ăn sáng, đề tài cứ gián đoạn như vậy.

Kỷ Thận Ngữ ăn không vô, bèn khuấy cả bát cháo từ đặc thành loãng, cuối cùng nuốt sống. Ăn xong thì ngồi ở phòng khách chính, không có mặt mũi nào để về đối mặt với Đinh Hán Bạch. Cậu vốn làm cái bình đó vì tiền, tiền là để mua quà đáp lễ Đinh Hán Bạch, kế đó chẳng những quà phải ngâm nước nóng mà Đinh Hán Bạch còn tốn ba vạn vì chuyện này.

Bên tivi là lịch để bàn, cậu nhìn chằm chằm đến thẫn thờ, vừa giật mình thấy nghỉ hè đã trôi qua hơn nửa, vừa bồn chồn vì hình như hôm nay có việc gì đó... Cậu suy nghĩ mãi mới nhớ ra hôm nay Lương Hạc Thừa xuất viện.

Phòng bệnh thường trống mất một giường, Lương Hạc Thừa ôm cái túi cũ đứng ở hành lang, giấu bàn tay phải, sợ người khác thấy ông có thừa một ngón. Lưỡng lự hồi lâu thì có người lao đến từ cuối hành lang, ông tức thì quên khuấy mất, giơ tay phải lên ra sức vẫy vẫy, miệng hô.

Kỷ Thận Ngữ chạy đến: "Ông ơi, tí nữa là cháu quên mất."

Lương Hạc Thừa nói: "Đừng lo, ta đang đợi cháu đây mà."

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Nếu cháu không đến thì chẳng phải ông sẽ mất công đợi ư?"

"Thế thì chứng tỏ không đủ duyên." Ông đáp.

Kỷ Thận Ngữ dìu đối phương đi ra ngoài, đến vườn hoa bệnh viện thì dừng lại nhìn ông cụ: "Ông à, tuy cháu giúp ông, nhưng không có nghĩa là cháu tốt bụng đến thế nào, mà chẳng qua là cháu không phải lo ăn lo uống, nên sức nặng của lòng trắc ẩn mới lớn hơn tiền bạc mà thôi. Nếu cháu phải gánh trách nhiệm nuôi gia đình, có nỗi khó xử của chính mình thì chưa chắc đã giúp ông."

Lương Hạc Thừa không ngờ cậu sẽ thẳng thắn như vậy, song dù tình huống giả thiết là thế nào thì giúp vẫn là giúp. "Duyên mà ta nói không chỉ là cháu giúp ta." Lương Hạc Thừa hỏi, "Lần trước cháu nói tiền đổi từ bình sứ xanh phải không?"

Không nhắc đến còn được, mặt Kỷ Thận Ngữ lộ vẻ đau khổ, kể hết sạch về câu chuyện hoang đường bình sứ xanh qua tay xong lại được mua về, nói xong thì mặt ủ mày chau, thế mà vẫn làm ông cụ phải bật cười.

Lương Hạc Thừa nói: "Đưa Phật đưa đến Tây Thiên, cháu đưa ta về nhà được không?"

Dù sao cũng đang nhàn, Kỷ Thận Ngữ bèn đưa đối phương về, số 25 ngõ Miểu An, đối phương bảo cậu đứng ngoài cửa đợi một lát. Cậu ngồi trên chiếc xe ba gác đã tàn, mười phút sau, Lương Hạc Thừa ôm một cái hộp ra, không biết bên trong đựng gì.

"Tặng thứ này cho cháu, xem như quà đáp lễ của ta."

Kỷ Thận Ngữ xua tay: "Đang yên đang lành sao cháu lại nhận đồ của ông được chứ, cháu không cần đâu."

Lương Hạc Thừa vẫn cố đưa cho cậu: "Cháu giúp ta, ta cũng giúp cháu, có qua có lại, duyên phận mới kéo dài được." Kỷ Thận Ngữ chưa kịp phản ứng thì ông cụ đã lủi vào cửa, toan đóng lại, "Cháu giữ cũng được, bán ra hoặc tặng người khác cũng chẳng sao, mọi việc đều có số cả, cứ xem duyên phận thôi."

Cửa đóng lại cái "cạch", Kỷ Thận Ngữ ôm chiếc hộp sững người, vừa ra khỏi ngõ đã trúng phải gió, suy nghĩ trong đầu càng rối rắm hơn. Sau khi về nhà thì rón rén vào tiểu viện và về phòng như kẻ trộm, đóng cửa sổ, khóa cửa, mở hộp kiểm hàng.

Trong hộp đã nhét vải lẫn tấm bọt biển, từng tầng lớp báo cũ bọc lấy món đồ, cao hơn ba mươi xen-ti-nét, chắc là một bình hoa. Kỷ Thận Ngữ trở thành tân lang mới cưới, đêm động phòng hoa chúc cởi quần áo tân nương, cẩn thà cẩn thận, không dám xé, lại nóng lòng ngó nghiêng, có mỗi mấy lớp báo mà khiến đầu cậu túa mồ hôi.

Đợi đến khi món đồ đã hoàn toàn lộ ra, cậu ngồi thụp xuống ghế.

Một bình sứ có màu xanh đậu như chiếc bình sứ xanh, xúc cảm nhẵn mịn, một trăm chữ Thọ khác thể chữ nằm trên bề mặt, nhìn xuống lạc khoản – Đồ giả cổ của Oa Ký cư sĩ*. Kỷ Thận Ngữ lau mồ hôi qua loa, cậu tự tin rằng mình giám định sẽ ra được thật hay giả, lại nhớ đến Đinh Hán Bạch, hắn đã tốn mất ba vạn để mua đồ rởm, cũng chẳng tin được.

(*Oa Ký cư sĩ là biệt hiệu của Đường Anh, tên tự là Tuấn Công – một nghệ nhân gốm sứ nổi tiếng thời Thanh.)

Cậu cứ ngồi sốt ruột như vậy trong phòng mấy tiếng, Kỷ Thận ngữ mới nhớ đến câu nói của Lương Hạc Thừa, cháu giúp ta, ta giúp cháu.

Hai vạn ba của cậu đã giúp Lương Hạc Thừa, vậy chắc món đồ này cũng đáng giá chừng ấy tiền.

Nhưng nếu Lương Hạc Thừa có một món đồ quý có giá trị thì tại sao không bán quách đi để mình đi khám bệnh cho rồi?

Hết chuyện này không rõ lại đến chuyện khác, Kỷ Thận Ngữ động não, lúc này tiếng bước chân bên ngoài làm cậu hoàn hồn. Ra ngoài nhìn, là Đinh Hán Bạch đã nhận báo cáo kiểm tra, cậu hồi hộp hỏi: "Sư ca à, báo cáo nói gì thế?"

Đinh Hán Bạch đáp một cách dứt khoát: "Đồ giả cổ."

Hình như cậu thấy Đinh Hán Bạch đang mỉm cười: "Vậy sao anh vui?"

"Mặc dù cái bình đó là đồ giả cổ, nhưng chính phần sứ trên thân lại đúng là hiện vật bị vỡ, cậu không thấy thú vị à?" Đinh Hán Bạch nói xong bèn vào thư phòng, giọng bị ngăn khỏi bên ngoài.

Kỷ Thận Ngữ nghĩ, chuyện này mà thú vị á?

Cậu khảy khung cửa, nhớ đến cảnh mơ lúc sáng, Kỷ Phương Hứa trong mộng nói là tráo hàng giả thành thật. Cậu bèn sáng tỏ, ôm bình hoa chạy sang thư phòng, chẳng hề xoắn xuýt tí nào, đưa bình hoa nọ cho Đinh Hán Bạch.

Đinh Hán Bạch thấy cậu vào, ánh nhìn dừng trên cái bình rồi ngớ người. "Sư ca, em có món đồ này tặng anh." Kỷ Thận Ngữ bước qua, chỉ kể là giúp một ông cụ nên nhận báo đáp, "Em không có tài giám định, nhưng có thể nhìn ra cái bình hoa này có chất lượng thượng thừa hơn bình sứ xanh kia, đồ giả cổ cũng chia cấp bậc, dù là đồ giả thì giá trị cũng tương đương, tặng cho anh."

Đinh Hán Bạch hỏi: "Người ta cảm ơn cậu, cậu tặng cho anh làm gì?"

Kỷ Thận Ngữ cầm bình sứ xanh: "Em đổi cái này với anh được không? Vì anh đã tặng em mặt dây chuyền đá Hổ Phách nên em muốn tặng quà đáp lễ cho anh thôi."

Ngoài miệng Đinh Hán Bạch thì nói thế, chứ mắt vẫn dính lên bình hoa. Hắn rút một quyển sách ảnh trong giá sách ra, bỗng hỏi: "Cậu có muốn biết thứ này là thật hay giả không?"

Tấm ảnh nằm trong trang sách ảnh nọ giống chiếc bình hoa, ghi chú: Bình hoa sứ xanh với họa tiết một trăm chữ thọ viết bằng mực đen, thời nhà Thanh. Đinh Hán Bạch kéo Kỷ Thận Ngữ lại để xác nhận: "Tặng anh rồi thì mặc anh xử trí, không hối hận chứ?"

Kỷ Thận Ngữ gật đầu, xử trí làm sao chả được, không giữ thì bán đi thôi, Lương Hạc Thừa đã nói không sao hết, cậu cũng chẳng thấy lấn cấn gì.

Được cho phép, Đinh Hán Bạch bèn lấy báo bọc cái bình rồi đi, vẫn là chợ đồ cổ Đồi Mồi, vẫn là ở con ngõ chật hẹp nọ. Hắn ngồi đến khi trời đen nhẻm, trong thời gian ấy có rất nhiều người đến hỏi, hắn đáp qua loa không thèm đếm xỉa gì, cũng không bán, những người bán bên cạnh đều không hiểu hắn muốn làm gì hết.

Vì vậy hắn lại xin nghỉ làm, ngồi trong ngõ bày quầy suốt ba ngày liền. Buổi trưa ba ngày sau, một đôi giày vải cũ xuất hiện trước mặt, hắn ngẩng đầu nhoẻn cười: "Đúng là có duyên."

Vị trí đã đảo ngược, Trương Tư Niên ngồi xổm xuống: "Cậu không giống người buôn đồ cổ."

Đinh Hán Bạch đáp: "Ông cũng không giống kẻ gom phế phẩm."

Trương Tư Niên tháo kính xuống, con mắt mù bại lộ dưới ánh mặt trời. Ông cầm cái bình lên xem, nhìn đủ từ miệng đến cổ bình, lấy tay làm thước để đo kích cỡ của món đồ, nhìn một lúc lâu: "Đây là tên hiệu của Đường Anh, bắt đầu sử dụng vào năm Ung Chính."

Đinh Hán Bạch gật đầu: "Hàng tốt, bán bớt một cắc tiền tôi cũng không đồng ý."

Trương Tư Niên hỏi: "Dùng đồ đổi đồ thì sao?"

Giới này đương thịnh hành làm như vậy, rất nhiều người sưu tầm thành nghiện, nhưng của cải có hạn, vì vậy bèn lấy đồ có giá trị khá tốt ra, hai bên bàn bạc rồi trao đổi hàng hóa để mua bán.

Đinh Hán Bạch vuốt cổ tay: "Tôi chỉ đòi tiền thôi, để mua đồng hồ Thụy Sĩ ấy mà."

Hắn nói một là một hai là hai, không hề mềm lòng. Hai ngày tiếp đó, Trương Tư Niên gom đủ tiền đến mua, một xấp một vạn, có hẳn mười xấp tiền. Hai người ra ngoài ngõ, cảnh tượng chồng chéo lên ngày hôm đó, lúc chia tay nhìn đối phương, hắn bỗng nhoẻn miệng cười.

Không phải vui mừng vì kiếm được tiền, mà là cầm lòng không đặng.

Con mắt mù của Trương Tư Niên nửa mở: "Bình sứ xanh đã giữ lại hay đã bán đi rồi."

Đinh Hán Bạch đáp: "Làm giả không tệ, giữ làm cảnh."

Kiểm lậu dựa vào bản lĩnh, dù có nói thẳng mặt cũng không thể nổi giận, chỉ biết ngạc nhiên. Trương Tư Niên nghe vậy thì bật cười, túm cái áo cộc phẩy gió: "Thế mà gọi là không tệ ư? Liếc mắt một cái là nhìn ra hàng rởm rồi, chỉ có thể nói là cậu không đủ tài mà thôi."

Đinh Hán Bạch kề sát: "Cái này thì khác, là hàng thật giá thật."

Hắn và đối phương mỗi người đi mỗi ngả, không thèm gửi tiền mà xách cả túi tiền mặt về nhà. Tiểu viện yên ắng, khi đi ngang cửa sổ ngoài thư phòng thì dừng lại, hắn thấy Kỷ Thận Ngữ đang cúi người làm bài tập.

Lấy tờ tiền mệnh giá một trăm tệ lớn nhất gấp máy bay rồi ném vào, vừa khéo rơi xuống sách.

Kỷ Thận Ngữ chạy tới, nắm khung cửa hỏi: "Sư ca ơi, anh bán bình hoa kia rồi à?"

"Ừ." Đinh Hán Bạch đáp, "Bán mười vạn."

Rắc - Kỷ Thận Ngữ làm gãy một miếng khung cửa, tròn mắt kinh hoàng, miệng hết khép rồi mở, không thốt nổi thành lời. Mười vạn... Bình hoa đó có giá mười vạn?! Lương Hạc Thừa tặng cho cậu thứ đắt tiền vậy, sao cậu nhận cho nổi?!

*Chú thích:

1. Ngựa gốm ba màu thời Đường:

Xem ảnh 1

2. Bình hoa một trăm chữ Thọ thời Thanh:

Xem ảnh 2

Chương 16: Trẻ nhỏ dễ dạy

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 16 – Trẻ nhỏ dễ dạy

Sóng trước chưa yên, sóng sau đã tới, Kỷ Thận Ngữ mãi mới hoàn hồn. Cậu cứ tưởng bình hoa họa tiết trăm chữ thọ và bình sứ xanh có giá trị ngang nhau, song thật sự không ngờ khi bán ra lại được mười vạn.

Điều rúng động cậu nhất là, thứ có giá cao đến vậy, chỉ là một đồ giả cổ.

Cấp bậc của đồ giả cổ phức tạp, cấp thấp nhất là hàng giả trên thị trường, sản xuất hàng loạt, người ngoài nghề cũng có thể nhìn cái là ra; bậc cao hơn kế đó, chỉ nhìn mắt thường thôi thì không đủ, phải chạm bằng tay; cao hơn nữa thì tinh xảo hơn, hoàn toàn dựa vào độ tỉ mỉ của tay nghề làm giả.

Kỷ Thận Ngữ không khỏi nghĩ ngợi, Lương Hạc Thừa có biết cái bình đó là đồ giả không nhỉ? Phải chăng ông trân trọng nó rất lâu, vẫn luôn tưởng nó là hàng thật? Cậu buông khung cửa ra, bất an xoay người đi, quên mất Đinh Hán Bạch vẫn đang đứng ngoài cửa sổ, chỉ nghĩ đến chuyện nhức nhối của riêng mình.

Giương mắt nhìn thoáng qua bình sứ xanh trên bàn học, cậu lại sinh ra sự nghi ngờ mới. Đến cả việc mình làm thứ này, Đinh Hán Bạch cũng không thể chắc chắn nhìn ra được, vậy tại sao có thể nhận định một cách chắc chắn chiếc bình hoa một trăm chữ Thọ này là giả được?

Kỷ Thận Ngữ nói ra suy nghĩ trong lòng, Đinh Hán Bạch không đáp, chỉ ngoắc tay bảo cậu đi theo.

Nhảy phắt một bước ra hành lang, Đinh Hán Bạch ném bừa chiếc túi lên bàn đá, tay trống trơn dẫn Kỷ Thận Ngữ ra tiền viện. Tiền viện rộng nhất, phòng ngủ Đinh Duyên Thọ và Khương Sấu Liễu đóng, ngoài cửa là một con mèo hoang đang nằm.

Đinh Hán Bạch hùng hổ mở cửa như tên thổ phỉ, khiến mèo hoang hoảng đến độ nhảy phắt lên cây. Hắn dẫn Kỷ Thận Ngữ vào phòng, đi thẳng đến một cái tủ thấp thì nửa ngồi xổm xuống, ngồi rồi mới phát hiện ra mình không có chìa mở khóa.

Kỷ Thận Ngữ ngồi bên cạnh: "Phù điêu gỗ lim?"

Mới vừa nãy ba hồn bảy vía loạn xì ngầu suýt xuất khiếu, giờ thấy tủ lại phấn chấn, Đinh Hán Bạch không quan tâm, lấy một chùm chìa khóa ngay tủ đầu giường, mỗi chiếc chìa có vết đánh dấu nhỏ, dựa theo dấu rồi mở khóa ra.

Hắn lấy một bình hoa ra khỏi tủ: "Cậu xem cái này đi."

Kỷ Thận Ngữ gỡ vỏ bông ra, ngạc nhiên: "Bình hoa trăm chữ Thọ!"

Chữ đề quen thuộc, xúc cảm lạnh lẽo và trắng mịn, đầu Kỷ Thận Ngữ vốn đã mông lung, nay lại thêm một chuyện kỳ lạ nữa. Đinh Hán Bạch đứng dậy ngồi bên giường, nói: "Có thể anh không xác định được lọ hoa một trăm chữ Thọ đó của cậu là thật hay giả, nhưng anh chắc chắn bình này là thật, cho nên bình kia là giả."

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Cái này đâu ra vậy ạ?"

Đinh Hán Bạch bật cười thành tiếng: "Là bố cậu tặng kèm theo cuốn sách ảnh đó cho bố anh, nên khóa vào tủ, không nỡ đưa ra ngoài để dính bụi."

Quanh đi quẩn lại cũng là vì duyên phận diệu kỳ, Kỷ Thận Ngữ ôm bình ngẩn ngơ, một chốc sau mới nhếch môi, nhìn Đinh Hán Bạch cười khì. Lúc này, chú mèo hoang trong viện đang kêu réo, nghĩa là có người đến.

Chưa kịp dọn hiện trường phạm tội thì Đinh Duyên Thọ đã mở cửa xuất hiện, sau khi thấy hai người thì trừng mắt, mãi sau mới quát: "Ban ngày ban mặt, hai đứa làm gì ở đây?"

Đinh Hán Bạch xách Kỷ Thận Ngữ lên, đáp: "Con kể cho cậu ấy là thầy Kỷ từng tặng bố một lọ hoa trăm chữ Thọ, cậu ấy tò mò, con cho cậu ấy nhìn."

Đinh Duyên Thọ không tính sổ nữa, bèn hỏi lại: "Mày khắc xong lọ thuốc hít chưa đó?"

Nấp trong chợ đồ cổ suốt mấy ngày nay nên đã quên sạch bài tập, Đinh Hán Bạch cãi lại cho có lệ: "Hôm nọ đi làm con dọn đồ giúp tổ trưởng khiến tay bị thương, đau không dùng lực được..."

"Xạo!" Đinh Duyên Thọ tức quá đá cửa, "Mày lại nghỉ làm, tưởng bố không biết chắc?!"

Đinh Hán Bạch không nói đối được nữa, bèn đi vòng qua chiếc bàn tròn để xông ra ngoài, nhưng rủi thay vẫn bị đá trúng một cú. Kỷ Thận Ngữ thấy vậy bèn đặt bình xuống, bảo "Sư phụ bớt giận", rồi cũng nhanh chân chạy thoát. Hai người vừa chật vật vừa buồn cười, sau khi về tiểu viện thì điều hòa nhịp thở. Kỷ Thận Ngữ về thư phòng tiếp tục làm bài tập, Đinh Hán Bạch cầm Bạch Ngọc lên rồi cũng vào phòng, phải khắc lọ thuốc hít.

Ghế kề sát nhau, Kỷ Thận Ngữ nhìn trân trân đề toán mới làm một nửa với vẻ mông lung, hướng giải đề bị ngắt.

Đinh Hán Bạch sáp đến: "Môn toán của anh không tệ đâu, giảng cho cậu nhé."

Cái giọng tự đề cử mình này rất chắc chắn, Kỷ Thận Ngữ bèn ngoan ngoãn dâng sách lên, cậu cứ tưởng Đinh Hán Bạch là kiểu người không thích học hành, đến khi giảng bài xong thì hơi thay đổi suy nghĩ.

Đinh Hán Bạch nói: "Từ nhỏ anh học Toán đã tốt rồi, hợp kinh doanh, tiếng Anh cũng ổn, hợp buôn bán to, vươn tầm quốc tế."

Kỷ Thận Ngữ bị thuyết phục trước logic này, bèn hỏi: "Vậy môn Văn tốt thì hợp cái gì ạ?"

"Văn tốt à?" Đinh Hán Bạch khựng người, "Văn tốt thì có tài ăn nói, nhưng Văn tốt vẫn chưa đủ, cả Thể dục cũng tốt mới được. Bởi vì có tài biện luận dễ sinh ra đấu võ miệng, nghiêm trọng hơn thì chọc người ta đánh mình, nếu môn Thể tốt sẽ chạy được nhanh hơn, chuồn nhanh như chớp."

Kỷ Thận Ngữ cười ngặt nghẽo, úp mặt trên sách cười lăn cười bò, không biết Đinh Hán Bạch đang pha trò với cậu hay đang nghiêm túc nữa. Dần dà, trong thư phòng chỉ có mỗi tiếng cười của cậu, bất chợt, cậu ngưng cười, im bặt.

Đinh Hán Bạch cầm Bạch Ngọc đến là nóng, rốt cuộc cũng tĩnh tâm cầm dao khắc.

Tiếng giở trang giấy loạt xoạt, Kỷ Thận Ngữ chẳng gặp bài nào không giải ra nữa, thế nhưng giải thuận lợi quá khó tránh khỏi lơi là, sinh cơn buồn ngủ. Hai ngày nay cậu chẳng ngủ ngon giấc, cơn ngái ngủ như sóng gầm biển động, cúi người xuống là không nhấc nổi nữa.

Tiếng động bên cạnh ngừng lại hồi lâu, Đinh Hán Bạch chăm chú chạm khắc tò mò xoay mặt sang: "Thằng nhóc này..." Hắn thấy Kỷ Thận Ngữ đương ghé vào quyển sách ngủ ngon lành, đè nửa mặt, trong tay vẫn đang nắm bút.

Mãi đến tận khi hắn khắc xong, đứng dậy dịch ghế, Kỷ Thận Ngữ mới từ từ mở mắt.

"Còn làm bài tập nữa không đó?" Đinh Hán Bạch hỏi, "Không làm thì về phòng ngủ, bớt nhỏ nước miếng xuống cả quyển sách."

Kỷ Thận Ngữ vẫn nằm sấp: "Anh khắc xong rồi à?"

Đinh Hán Bạch gật đầu, đưa lọ thuốc hít bằng Bạch Ngọc ra, cổ ngắn vai rộng, giữa dáng lọ vuông là hình tròn, quan trọng là không hề có dấu vết chạm khắc, chỉ là một miếng đậu phụ bằng ngọc mà thôi. Kỷ Thận Ngữ ngồi thẳng dậy: "Chỉ khắc đường viền, trên mặt đá không có hoa văn, anh lười hả?"

Cậu thấy Đinh Hán Bạch không đáp, vừa suy nghĩ đã ngộ ra: "Viên đá này..."

"Ngọc Hòa Điền thượng thừa, cảm ơn cậu đã biết chọn vậy nhé." Đinh Hán Bạch hết sức hài lòng, hài lòng đến nỗi sợ khắc thêm một dao thôi sẽ để phần phụ lấn át phần chính. Đợi khi nào khoét lòng, đánh bóng thì lọ thuốc hít bằng Bạch Ngọc không một kẽ nứt này mới gọi là hoàn hảo được.

Kỷ Thận Ngữ cầm lên thưởng thức: "Sư ca ơi, tiền công của Ngọc Tiêu Ký rất cao, vậy mình tính giá của lọ này là bao nhiêu?"

Đinh Hán Bạch đáp: "Đây là lọ thuốc hít bằng ngọc được lưu hành vào thời Càn Long, gọi là "Lương tài bất trác", đã từng có một cặp được ghi chép trong sách, giá hơn mười vạn, lọ đơn lẻ này chỉ tầm ba đến bốn vạn thôi."

(*Lương tài bất trác: Lấy từ "Ngọc bất trác, bất thành khí" – Ngọc không mài giũa thì không thể thành khí cụ được, cũng như con người không được giáo dục, không học tập, rèn luyện thì không thể thành tài.)

Kỷ Thận Ngữ thích quá không nỡ rời tay: "Thế chẳng phải em có thể nhận nửa công lao hả? Đợi khi nào bán ra, em phải đi tranh công với sư phụ."

Lòng bàn tay trống trơn, lọ thuốc hít đã bị Đinh Hán Bạch đoạt lại, "Cậu mơ đẹp nhỉ." Đinh Hán Bạch xòe tay ra, giấu đồ trong tay, "Anh không bán đâu, đợi đến năm mươi tuổi rồi anh dùng."

Kỷ Thận Ngữ thấy lạ: "Còn ba mươi năm nữa mà anh đã chuẩn bị đến cả năm mươi tuổi luôn á?"

Đinh Hán Bạch nói: "Đương nhiên, năm mươi số trời đã định, tiền cũng kiếm đủ, dạy lại tay nghề lẫn tài cán cho con trai, còn anh rong chơi suốt ngày." Hắn nói đến là có lý, Kỷ Thận Ngữ bèn hỏi sinh con gái thì sao? Hắn trả lời: "Anh có nguyên tắc như này, truyền cho con trai, không truyền cho con gái."

Đùa à, chạm khắc khổ đến thế, sao nỡ để con gái mình làm được. Con gái ấy à, đi học này, làm những gì mình thấy hứng thú này, giống Khương Thải Vi là tốt nhất. Đinh Hán Bạch nghĩ vậy.

Kỷ Thận Ngữ đập tan suy nghĩ của hắn: "Thế lỡ anh không có con trai, chẳng phải tay nghề sẽ thất truyền ư?"

Đinh Hán Bạch liếc: "Bộ anh không nhận đồ đệ à? Nhưng đồ đệ anh chắc chắn phải có thiên phú cao, không thì thà không nhận còn hơn. Với cả thất truyền thì có sao, có phải tứ đại phát minh đâu*, chẳng lẽ "không được" thất truyền à?"

(*Tứ đại phát minh của người Trung Quốc gồm la bàn, thuốc súng, nghề làm giấy và nghề in.)

Kỷ Thận Ngữ chẳng cãi lại nổi, nghĩ chắc môn Văn của Đinh Hán Bạch là môn xếp nhất quá, lúc nào cũng có lời để nói. Đương lúc im lặng, cậu chợt nhớ tới Kỷ Phương Hứa, thật ra có con trai thì đã sao? Đến cả việc đốt vàng mã cúng tế cũng cách nghìn núi vạn sông, chỉ có thể báo mộng trách móc một câu "Vậy ta cũng không cảm thấy con nhớ ta" kia kìa.

Ánh nhìn cậu dừng trên chiếc bình sứ xanh, lòng tiếc nuối càng sâu hơn, Kỷ Phương Hứa dạy cho cậu tài cán này, chắc sau này cũng phải bỏ phí quá.

Đinh Hán Bạch không rõ tình hình, nhìn nương theo tầm mắt của Kỷ Thận Ngữ, hào sảng nói: "Chẳng phải cậu muốn đổi đồ à? Đã đổi cho cậu rồi đó thôi."

Quanh đi quẩn lại, bình sứ xanh lại về tay Kỷ Thận Ngữ. Cậu dở khóc dở cười, sau khi ôm bình về phòng thì dựa cửa bần thần. Lúc đó Lương Hạc Thừa đã nói mọi việc đều có số, cứ xem duyên phận, nhưng cái duyên mười vạn này xa xỉ quá, có được nó từ một ông già mắc bệnh nan y, e là giảm thọ mất.

Ba ngày sau, Đinh Hán Bạch đội mưa to đi làm, khi đến cửa Cục Di sản văn hóa thì bị một chiếc xe ba gác ngáng đường, kéo cửa kính xuống hô to với bảo vệ cửa, bảo vệ lại đẩy một ông già ra.

"Sao lại thế này?" Đinh Hán Bạch hỏi.

Bảo vệ nói: "Người thu phế phẩm của viện bảo tàng, định làm ăn ngay trong cục luôn, đuổi mà không đi."

Ông cụ đội chiếc mũ rơm, cả giày vải lẫn ống quần đều ướt nhẹp, Đinh Hán Bạch nhìn không nổi bèn nói: "Bảo ông ấy vào trú mưa đi, tôi xin cho, xem có thể giúp ông ấy làm ăn không?"

Hắn đỗ xe xong thì vào tòa nhà, bắt gặp ông cụ trú mưa ngay cửa, vừa cất bước thì ông cụ đã lấy mũi rơm xuống, mặt lộ ra, không phải Trương Tư Niên thì là ai?!

Trương Tư Niên lau nước: "Cậu còn xin nữa không?"

Đinh Hán Bạch cảm thấy cái ông này đúng là đồ gây rối, còn cách nhau một mét năm nữa thì cười phá lên: "Xin chứ, sau này ông cứ thường đến đi, có gì tốt tôi sẽ đưa ông xem, mười vạn một món phá giá cực mạnh."

Hắn dứt lời vào tòa nhà đi làm, sau khi đến văn phòng thì định viết đơn xin gửi Trương Dần, một văn phòng mà đã phê chuẩn thì những bộ ngành khác cũng lười tìm hiểu, chuyện rất chi là đơn giản. Trương Dần lề mà lề mề, lau lọ mực nước, bóp ruột bút, sau khi hút mực xong thì lau khô, cuối cùng mới ký cái tên không quá lẫy lừng của mình.

Đinh Hán Bạch hít hà, cúi đầu nương theo mùi đàn hương thì nhìn thấy chiếc lư hương nhỏ trên bàn. Thảo nào rề rà thế, thì ra là đợi hắn phát hiện nơi đây có món đồ mới, trong lư hương đặt sachet*, chắc chẳn là quý lắm, nên không chịu dùng hương thật kẻo đốt phải vách lư.

(*Sachet là một túi vải nhỏ thơm chứa đầy các loại thảo mộc, potpourri, hoặc các thành phần thơm.)

Hắn cúi người thưởng thức, nói dối hết câu này đến câu khác: "Gốm Ge* thời Tống, đẹp thật."

(*Gốm Ge: Là một loại men ngọc hoặc đồ xanh trong đồ gốm Trung Quốc – một trong năm dòng "danh sứ" celadon ngự dụng thời nhà Tống, cũng có thể gọi là gốm Ca Diêu. Là loại gốm Celadon có men phủ xám trắng và hoa văn rạn khá chặt, có nguồn gốc từ tỉnh Triết Giang vào thế kỷ 13- 15. Các phiên bản sản phẩm copy xuất hiện ngay sau giai đoạn này và trở thành phổ biến đặt biệt vào đầu thế kỷ 20, lúc này thường kết hợp với hình thức có viền rìa không phủ men hoặc khắc chạm chìm.

Lần trước tôi sơ suất nên giờ sửa lại.)

Cuối cùng Trương Dần cũng ký xong xuôi: "Đồ giả cổ thời Càn Long, là gốm Ge bình thường thôi."

"Vậy tôi nhìn lầm rồi." Đinh Hán Bạch tâng bốc đối phương lên chín tầng mây, chắc đi làm tuần này sẽ trót lọt cả thôi. Sau khi rời đi thì tất bật một chốc, mưa ngớt rồi bèn gom được hai thùng phế phẩm, Trương Tư Niên vẫn đang đứng chờ ở cửa, thấy hắn ra thì đích thân đón.

"Nhiều hơn lúc bàn điều kiện, có phải cậu chi trả sẽ hời hơn không?"

Đinh Hán Bạch thấy bị sỉ nhục: "Trả một vạn mà tôi còn không thèm chớp mắt lấy một cái, thế mà còn ham cái giá chênh lệch khi bán phế phẩm á?"

Trương Tư Niên vốn hay pha trò, bèn hí hửng nói: "Đúng rồi, chẳng phải cậu bảo cậu làm việc ở viện bảo tàng à?"

Đinh Hán Bạch cũng cười: "Ông được bán hàng rởm còn tôi thì không được dối về thông tin cá nhân chắc?" Hắn nói thẳng ra, "Khi đó ông nói cái bình nọ xuất xứ từ Phúc Kiến, có hơi "nổ" rồi đó."

Nếu Trương Tư Niên nhận thầu phế phẩm của viện bảo tàng thì chắc chắn đã dạo nơi ấy không ít lần, do đó đã trông thấy đống sứ vỡ trục vớt dưới biển đó rồi. Trương Tư Nhiên khoái trá gật đầu: "Nếu không "nổ" thì gạt cậu kiểu gì?"

Đinh Hán Bạch cảm thấy mình lại bị sỉ nhục nữa, cái giới này có ai giám định bằng miệng đâu nào, thứ chẳng đáng con mẹ nó tin nhất là miệng đó. Hắn tranh thủ buôn chuyện: "Cái bình kia dùng cách chắp vá, sở dĩ làm giả là bởi có vốn vật liệu thật, đương nhiên kỹ thuật cũng không hề tệ."

Con mắt mù của Trương Tư Niên dính mưa, đo đỏ: "Còn cách nào khác không?"

"Còn có niêm phụ, chôn cất, hoặc làm giả một bộ phận, hoặc làm giả toàn bộ." Đinh Hán Bạch đáp. Hắn đã học thuộc lòng những gì có trong "Như núi như biển", cách làm giả ba hai một, cách giám định bốn năm sáu, nhớ như in.

(*Cách làm giả của em Ngữ ở đây – chắp vá – là gắn đồ giả lẫn thật vào nhau. Niêm phụ nghĩa là gắn những thứ gây cảm giác cũ kĩ như xác bọ, đất cát trết cứng,... lên bề mặt vật. Chôn cất tức là chôn đồ giả xuống đất, tùy theo mục đích mà chôn lâu hoặc không, giả vờ như vừa được khai quật lên.)

Trương Tư Niên hỏi: "Thế cậu nhìn ra nó là giả rồi còn mua?"

Lúc đó Đinh Hán Bạch chỉ muốn nghiên cứu mà thôi, huống chi hắn thấy ba vạn chẳng là gì cả. Nhưng nếu đã nhắc đến đây rồi, hắn nổi ý xấu, nín cười nhìn đối phương. Trương Tư Niên bị hắn nhìn mà thấy mất tự nhiên, mắt mù trợn tròn bất chợt hiểu ra.

"Thằng cháu này!" Ông cụ mắng to, "Hình hoa trăm chữ Thọ là đồ giả!"

Đinh Hán Bạch dỗ dành: "Đồ giả thì cũng là hàng cao cấp đó, tôi dám nói thế này, ông mà cầm đi thử xem, chẳng ai nhìn ra được đâu, bán lại sẽ được giá cao hơn nữa đó."

Trương Tư Niên nổi giận, giận vì mình nhìn lầm, chứ nom không hề liên quan đến cái gì khác. Hồi sau bình tĩnh lại vẫn thấy là lạ: "Người Cục Di sản văn hóa giỏi thật đấy, chẳng giống mấy kẻ buôn đồ cổ, một phát ăn ngay."

Đinh Hán Bạch nói: "Khen mình tôi là được, đừng kéo cả cơ quan vào." Hắn trỏ ngược tay lên trên, "Chủ nhiệm bọn tôi mua một cái lư hương gốm Ge giả, ngu vãi, tôi mất mặt vì gã ghê."

"Sao cậu biết là giả?"

"Chiếc lư hương nhỏ đó chăng dầy dây sắt sợi vàng* lỏng, độ khó phục chế khá lớn. May là trí nhớ của tôi tốt, xưa giờ toàn chọn mấy hiện vật được bảo tồn để nhớ, nhìn từ khoảng cách giữa các sợi hơi khang khác là ra."

(*Dây sắt sợi vàng: Đặc điểm nổi bật của loại gốm Ge là vết rạn khắp toàn thân, mảng hoa văn kích thước không đều nhau, mảng lớn có màu đen sắt, mảng nhỏ có màu vàng kim, vì thế nên có cách gọi"dây sắt sợi vàng".)

Bán phế phẩm rồi nhàn nhã hồi lâu, mưa đã ngớt, Trương Tư Niên chuẩn bị đi, bèn cười, bèn hừ, hoàn toàn không nổi giận như ban nãy, mà cứ như gặp phải chuyện vui nào đó. Ông bước xuống bậc thang, ngoái đầu la to với Đinh Hán Bạch: "Cậu có muốn xem lư hương gốm Ge thật không?"

Đinh Hán Bạch sửng sốt không kịp phản ứng, bèn bị cái nhìn chém đinh chặt sắt của ông làm điếng người.

"Số 57 Sùng Thủy, đừng đến tay không, xách hai xị rượu trắng." Trương Tư Niên rút tinh quang trong mắt về, đội mũ rơm, vừa đi vừa độc thoại, "Ây, trẻ nhỏ dễ dạy."

Còn lúc này, Kỷ Thận Ngữ đã đến số 25 Miểu An, khí thế ngút ngàn, dường như sắp xảy ra chuyện gì đó.

*Chú thích:

Lư hương gốm Ge:

Xem ảnh 1

Chương 17: Phi gian tức đạo

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 17: Phi gian tức đạo

Ván cửa cũ chắn lại, phần giữa bị ăn mòn thành một khe hở, có thể nhìn thấy cái sân nhỏ hẹp và bẩn thỉu. Kỷ Thận Ngữ cẩn thận đẩy cửa ra, sau khi vào sân thì ngửi thấy mùi thuốc lên men.

Cậu đi vào phòng, thế nhưng cửa sổ tích lớp sơn lót dày, chắc đã mấy năm rồi không lau. Cửa phòng đóng kín, câu đối xuân hai bên rách tơi tả, chắc cũng được dán từ rất nhiều năm về trước.

"Ông ơi?" Cậu gọi.

"Ơi!" Lương Hạc Thừa đáp với từ bên trong, giọng tuy không nhỏ nhưng lượng hơi không đủ dày, trái lại trông như đã phải gồng mình để rống, rống xong thì mệt nên chân lảo đảo. Cửa phòng mở, Lương Hạc Thừa đứng ngay phòng, trời chỉ đổ cơn mưa thôi mà ông đã phải khoác thêm một chiếc áo bông mỏng.

Kỷ Thận Ngữ ngập ngừng: "Cháu, cháu đến thăm ông."

Lương Hạc Thừa nói: "Ta đang đợi cháu đây mà." Nói y như ngày xuất viện, ta đang đợi cháu đây mà.

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Nếu cháu không đến thì chẳng phải ông sẽ mất công đợi ư?"

Lương Hạc Thừa trả lời một nẻo: "Không đến tức là không đủ duyên, đến rồi, nghĩa là hai chúng ta có duyên."

Thấy trời lại bắt đầu đổ mưa, Kỷ Thận Ngữ bèn vào nhà theo đối phương, đi vào lại không có chỗ đặt chân. Một cái sofa da, một cái tủ đứng chạm trổ hoa, khắp đất đều là đồ cổ quý giá. Cậu choáng đầu quáng mắt, lùi về sau dựa vào ván cửa, không biết nên dừng mắt ở bình sứ trắng, hay bình sứ xanh thì hơn.

Lương Hạc Thừa cười tủm tỉm, nom hiền hậu: "Có mỗi hai căn phòng này thôi, cháu tham quan không?"

Hai chân Kỷ Thận Ngữ nặng như chì, bước có mỗi một bước mà cũng phải xoắn xuýt nửa phút, sợ nhấc chân đạp phải thứ nào đó. Khó lắm mới đến được cửa phòng, cậu khẽ khàng vén rèm lên, nhất thời hít một hơi sâu.

Trên chiếc bàn lớn là một cặp chén họa tiết rồng cưỡi mây đỏ đựng nước, Hàm Phong niên chế*; nửa miếng bánh nướng đặt trong chén Bát Tiên bằng sứ Thanh Hoa, Quang Tự niên chế; còn có cả nắp ấm bằng gốm Yue*, bát rửa bút men trắng* hình lá sen, mỗi cái mỗi nét riêng.

(*Niên chế: Năm làm ra vật đó.

Gốm Yue: Khi mà loại đồ gốm sứ Trung Quốc tráng men pha chì nung ở nhiệt độ thấp (dùng cho thờ cúng, đám ma) phát triển rất mạnh trong suốt thời kỳ Đông Hán, những đồ gốm men ngọc chính gốc bắt đầu được phát triển tại lò nung gốm Yue ở phía Bắc tỉnh Chiết Giang. Do đó nó cũng có tên là gốm Yue/Việt.

Men trắng: Từ chính xác ở đây là Bạch dứu – hay còn gọi là Bạch từ – dùng để chỉ sắc men trắng hoặc ngà.)

Lại cúi đầu, dưới mặt đất trên cửa sổ, những góc sáng sủa, đồ cổ được đặt chi chít, màu sắc sặc sỡ, đủ loại kiểu dáng. Mùi men nọ tỏa ra từ chiếc tủ đầu giường, Kỷ Thận Ngữ đến gần để ngửi thì ngửi thấy một thứ mùi không hề xa lạ trong chiếc bình kia.

Lương Hạc Thừa ngồi xuống giường: "Cái bình trăm chữ Thọ sao rồi?"

Kỷ Thận Ngữ ngẩng phắt đầu lên, rốt cuộc cũng nhớ ra ý định khi đến. "Ông à, cháu đến là vì cái bình hoa trăm chữ Thọ đó đấy ạ." Cậu lùi về sau, đứng vững, như đi báo cáo chi tiết, "Đã bán cái bình hoa trăm chữ Thọ đó rồi... Bán được mười vạn ạ."

Cậu cứ tưởng Lương Hạc Thừa sẽ kinh hãi sẽ hối hận, nào ngờ đối phương vẫn ngồi vững như núi Thái Sơn, còn gật đầu ra chiều hài lòng.

Kỷ Thận Ngữ lại tiếp tục nói: "Thật ra cái bình hoa một trăm chữ Thọ đó là đồ giả, ông có biết không ạ?"

Lương Hạc Thừa nghe vậy thì ngẩn ra, Kỷ Thận Ngữ nghĩ đúng là đối phương chẳng hay biết gì thật, ai ngờ Lương Hạc Thừa bất chợt bật cười, che phổi rồi nói: "Không ngờ có thể giám định ra nó là thật hay giả, ta thấy đến cả lão Trương mù cũng chưa chắc đã nhìn thấu nổi đâu."

Kỷ Thận Ngữ vừa định hỏi ai là lão Trương mù, Lương Hạc Thừa bỗng hỏi: "Bình sứ xanh cháu làm thì sao?"

Kỷ Thận Ngữ gỡ cặp sách rồi lấy bình sứ xanh ra, khi đến cậu cũng không rõ là nghĩ gì nữa, nhưng vẫn mang cái bình này đến. Lương Hạc Thừa nhận lấy, xoay tròn xem một vòng, nhưng không đánh giá.

Căn phòng nhất thời yên lặng, chỉ có tiếng mưa rơi lộp bộp bên ngoài.

Sáu ngón tay đột nhiên nắm chặt miệng bình, nhấc lên quẳng xuống, bình sứ xanh vỡ tung tóe, tiếng vỡ giòn tan, đâm thẳng vào tai người.

Kỷ Thận Ngữ nhìn mảnh sứ vỡ đầy đất, hãi hùng đến nỗi không thốt nổi thành lời.

Còn Lương Hạc Thừa thì mở miệng: "Bình trụ vuông tai voi sứ xanh biếc là giả, bình hoa trăm chữ Thọ sứ xanh lá cũng là giả, những thứ cả trong lẫn ngoài hai căn phòng này đều là giả."

Nói cách khác, đồ bị cướp ngày hôm đó trong ngõ vốn là đồ rởm, bình hoa trăm chữ Thọ trả lễ cũng đã biết nó là đồ rởm từ khướt, kể cả đống đồ cổ khắp mặt đất này đây cũng chẳng phải đồ thật. Tuy trông như ngoài ý muốn, nhưng Kỷ Thận Ngữ lại cảm thấy vẫn nằm trong dự liệu. Cậu nhìn chiếc bình đặt trên tủ đầu giường, trong đó đựng nước thuốc lên men, là thứ thuốc quét lên bề mặt sứ khi làm giả.

Cậu đứng thẳng người, nói: "Bình sứ xanh cũng là đồ giả, là cháu làm."

Khóe miệng Lương Hạc Thừa ngậm ý cười: "Mấy cái này, toàn là ta làm cả."

Tại sao lại đập vỡ bình sứ xanh? Bởi vì làm không tốt, không đủ tư cách để đặt trong căn phòng xập xệ này.

Kỷ Thận Ngữ không xót xa chút nào, nếu không quẳng, có khi cậu lại ngượng lắm ấy chứ. "Ông ơi." Cậu hỏi, "Tài hoa của ông tuyệt đến thế, sao lại ở trong một căn nhà xoàng xĩnh thế này, đến bệnh cũng không chữa được ạ?"

Lương Hạc Thừa đáp: "Mắc bệnh nan y ắt phải chết, ta đây neo đơn không nơi nương tựa, trị bệnh gì nữa, sống đến trăm tuổi có nghĩa gì đâu?" Ông vẫn che phổi, khối u đang sinh trưởng ngay trong đó, "Ta đã từng nhận đồ đệ, học chưa được bảy phần đã không kìm được lòng tham, trộm đồ của ta, phá hỏng thanh danh của ta. Ta gặp cháu, cháu thiện tâm, còn hiểu nghề, ta bèn muốn nhìn xem chúng ta có duyên phận hay không."

Kỷ Thận Ngữ đã hiểu hết tất cả, ông cụ có ý nhận cậu làm đồ đệ. Cậu cứ tưởng Kỷ Phương Hứa đã qua đời, chút tài cán ấy của mình rồi sớm muộn cũng sẽ hoang phí, mà không ngờ rằng vận mệnh đã sắp đặt một quý nhân cho cậu.

Còn hơn cả quý nhân nữa, ông cụ mắc bệnh, ngôn từ lẫn phong thái giống hệt như Kỷ Phương Hứa trong hai năm cuối đời.

Kỷ Thận Ngữ xúc động, nhìn mảnh sứ vỡ vụn rải khắp đất chẳng thể đặt chân lên, một lát sau, sấm sét nổ uỳnh ngoài cửa sổ, cậu kéo đệm lót ghế xuống, trịnh trọng quỳ giữa tiếng mưa rơi.

Lương Hạc Thừa nói: "Con phải hứa đã."

Kỷ Thận Ngữ bèn hứa: "Vững lòng học nghề, phụng dưỡng chăm việc nhà... Sinh lão bệnh tử con ở bên, sau trăm tuổi con an táng." Lúc trước Kỷ Phương Hứa nhận cậu làm đồ đệ bên mình, cậu mới mấy tuổi đầu, cứ quỳ và đọc chuỗi câu này.

Lương Hạc Thừa vỗ đầu gối: "Nên gọi ta rồi đấy."

Cậu vịn vào đầu gối đối phương: "— Sư phụ."

Màn mưa dày đặc, rơi theo từng cơn, hóa thành từng bãi nước đục. Kỷ Thận Ngữ bái sư xong thì không làm gì khác, bung dù dọn sân, gom hết đồ cũ lại, tính để lần sau mua mấy bồn cây hoa.

Lương Hạc Thừa ngồi giữa cửa, khoác chiếc áo tàn tạ ngậm tẩu thuốc, hoàn toàn rặt một vẻ hưởng thụ. Tiếc là chưa được hưởng thụ lâu thì Kỷ Thận Ngữ đã giật cái tẩu, nói năng rất hùng hồn: "Ung thư phổi mà còn hút thuốc, từ nay cai đi nhé."

Lương Hạc Thừa không phản kháng, chỉ nghe rồi thôi, bắt chéo chân nhắm mắt dưỡng thần. Kỷ Thận Ngữ tất bật dọn dẹp cả ngoài lẫn trong mệt đứ đừ, dựa khung cửa lắng nghe tiếng mưa với Lương Hạc Thừa. Một lúc lâu sau, cậu hỏi: "Sư phụ ơi, người không muốn hiểu thêm về con ạ?"

Lương Hạc Thừa nói: "Còn nhiều thời gian mà, gấp làm gì."

Con người ấy mà, đức hạnh giống nhau hết, người ta càng không hỏi, mình càng muốn nói, Kỷ Thận Ngữ bèn chủ động kể: "Quê nhà con ở Dương Châu, sư phụ đã qua đời, con đi theo bạn cũ của ông ấy đến đây, vừa làm đồ đệ vừa làm con nuôi."

Lương Hạc Thừa xốc tinh thần: "Vậy tài năng của con là thừa hưởng từ sư phụ nào?"

"Từ sư phụ đầu tiên, vừa là sư phụ, cũng là bố ruột." Kỷ Thận Ngữ đáp, "Nhưng mà... Con thẳng thắn với người luôn, thật ra con chủ yếu không phải học cái này, mà là chạm khắc đá quý."

Lương Hạc Thừa hỏi: "Sư phụ hiện giờ của con là ai?"

Kỷ Thận Ngữ ngồi xổm xuống: "Ông chủ của Ngọc Tiêu Ký, Đinh Duyên Thọ."

Lương Hạc Thừa vừa giật mình vừa mừng: "Ông chủ Đinh ư?!" Ông chỉ tay về phía sau, "Con nhìn cả cái căn phòng kia đi, đủ loại đồ cổ, nhưng có phải chỉ duy không có đồ trang trí bằng đá quý không? Điêu khắc khác ngành, dù có khắc ra được cũng không thoát khỏi pháp nhãn của sư phụ con đâu!"

Không nhắc đến còn ổn, chứ đã nhắc rồi thì lại thấy hơi thấp thỏm.

Đến tận khi rời đi rồi, Kỷ Thận Ngữ vẫn không thấy thoải mái tẹo nào, khi về phố Sát Nhi trông thấy cửa nhà họ Đinh, sự khó chịu đó càng bị đẩy đến đỉnh điểm. Cậu chột dạ, áy náy, lo lắng, bộp chộp đi bái sư, quên mất mình vốn đã có sư phụ, còn là người sư phụ đối xử tốt với cậu đến vậy nữa.

Bước vào cửa, vừa lúc Đinh Duyên Thọ đang đứng ngay bên cái ao trước tường bình phong, vừa thấy cậu đã mỉm cười, hỏi trời đổ mưa mà con chạy đi đâu chơi vậy.

Kỷ Thận Ngữ không dám đáp, bèn chui dưới tán ô để đỡ cánh tay Đinh Duyên Thọ, cũng lấy thức ăn cho cá từ tay đối phương ném vào nước. Ao vừa trong vừa nông, mấy con cá chép đỏ vẫy đuôi, hai thầy trò nhìn đến là mê mẩn, đợi đến khi trên mặt nước hắt thêm một bóng dáng mới hoàn hồn.

Đinh Hán Bạch nhìn bọn họ: "Cho cá ăn mà làm như thể Tô Thức Đăng Cao thế này, sao vậy, Ngọc Tiêu Ký lại phải đóng một cửa hàng nữa à?"

(*Ở đây tôi không hiểu lắm, nhưng Tô Thức, hiệu Đông Pha cư sĩ, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Dựa theo sự nghiệp chính trị thì ông từng gặp một giai đoạn bấp bênh, đi ẩn cư. Còn Đăng Cao là bài thơ của Đỗ Phủ, được tác giả làm dịp tiết trùng dương năm Đại Lịch thứ 2 (767) khi ở Quỳ Châu, chỉ trước khi qua đời khoảng 3 năm. Bài thơ thông qua miêu tả cảnh sắc mùa thu lúc lên cao, diễn tả tâm trạng buồn đau lúc già bệnh mà thân phiêu bạc xa quê đã lâu ngày. Nên mạnh dạn đoán là ý muốn nói rằng: Hai người cho cá ăn mà ngẩn ra như thể gặp chuyện gì buồn đau, đầy suy tư.)

Đinh Duyên Thọ giả bộ mù: "Thận Ngữ à, chúng ta về phòng xem tivi đi."

Hai thầy trò xem Đinh Hán Bạch như không khí. Kỷ Thận Ngữ đỡ sư phụ về phòng, khi vòng qua tường bình phong thì ngoái đầu lại nhìn Đinh Hán Bạch một cái. So với Đinh Duyên Thọ, cậu sợ Đinh Hán Bạch hơn, dù gì Đinh Hán Bạch cũng dám đập bàn quát cả bố đẻ của mình cơ mà.

Cũng chẳng sợ hoàn toàn, dẫu sao cũng không muốn trêu chọc, nhiều một chuyện chi bằng bớt đi một chuyện.

Đến giờ cơm tối, Đinh Hán Bạch tập trung ăn cá hấp, nhưng bong bóng cá có mấy đâu mà gắp, trong khi mấy bộ phận khác thì lại ngại không đủ non. Đũa tạm dừng một chốc, Kỷ Thận Ngữ ngồi bên chưa ăn, cậu bèn gắp một cái đã gắp trước đó vào bát hắn.

Hắn xoay mặt sang, Kỷ Thận Ngữ mỉm cười với hắn.

Ăn canh, hắn chẳng múc được mấy miếng cồi sò điệp, Kỷ Thận Ngữ lại gắp cho hắn vài miếng.

Ăn cơm xong thì gặm dưa hấu, hắn vờ lười động đậy, Kỷ Thận Ngữ bèn cắm một miếng dưa cho hắn.

Lòng Đinh Hán Bạch rúng động, hắn đã nhìn ra từ bảy đời, thằng nhãi Nam Man này lên phương Bắc ăn nhờ ở đậu, thế nhưng khi đã không cam phục người ta, khinh khỉnh lên cũng thành nhóc đáng ghét. Hôm nay lại khác thường, còn tri kỷ hơn cả người hầu, vô sự hiến ân cần – Phi gian tức đạo*.

(*Khi không tỏ ra ân cần, không phải chuyện gian trá thì cũng là phường trộm cắp.)

Đinh Hán Bạch vẫn yên lành, không bị gian, vậy tức là đạo rồi. Hắn hạ giọng hỏi: "Cậu trộm mười vạn tệ của anh à?"

Kỷ Thận Ngữ sửng sốt: "Nào có, ai lạ gì..."

Đoán ra là cậu không dám mà, Đinh Hán Bạch nghĩ vậy. Tối đó cả nhà ngồi xem tivi, Đinh Duyên Thọ ra ngoài đóng cửa, khi về bỗng hét toáng lên, định dọa con mèo hoang nằm ngoài cửa.

Soạt – Kỷ Thận Ngữ đứng phắt dậy, thấp giọng hô: "Xong đời rồi!"

Khương Sấu Liễu không nghe rõ, nhưng Đinh Hán Bạch thì nghe không sót chữ nào, sau đó yên lặng quan sát cả đêm, bèn nhận ra chỉ cần Đinh Duyên Thọ hơi cựa quậy cái là mắt Kỷ Thận Ngữ đã hiện vẻ hoảng hốt, đúng kiểu chim sợ cành cong.

Cuối cùng cũng đến lúc về tiểu viện, Kỷ Thận Ngữ đi phía trước, Đinh Hán Bạch theo sau, vào cổng vòm rồi thì đá cho chậu trúc Phú Quý ngã lăn quay, tiếng động đó khiến đối phương sợ giật bắn. Đinh Hán Bạch hỏi: "Làm chuyện gì đuối lý à?"

Kỷ Thận Ngữ quay đầu lại, mặt trắng bệch dưới ánh trăng: "Không, em tưởng là có chuột chạy."

Cái lí do này rất ngu, Đinh Hán Bạch đâu chịu tin: "Hôm nay đã làm gì?"

Kỷ Thận Ngữ không rành nói dối, nhưng biết đánh trống lảng: "Mấy ngày trước em mơ mình quay về Dương Châu, trong mơ có bố em, và cả anh nữa. Bố em trách em không nhớ ông ấy, thế mà bỗng dưng không thấy đâu nữa, tìm cũng chẳng ra."

Nói rồi nói thành ra chân thành, cách mấy bước chân chợt hiện bóng hình của Kỷ Phương Hứa, Kỷ Thận Ngữ lùi về sau đến bên bàn đá, hỏi: "Sư ca ơi, có thể tặng em ánh trăng lần nữa không?"

Hiệu lực có hạn trong một buổi tối, nhưng rất có ích.

Đinh Hán Bạch nhìn lên trời: "Trời đổ mưa, không có trăng."

Người trước không truy cầu thêm, người sau không truy hỏi nữa, ai nấy tự đi mất.

Kỷ Thận Ngữ ngồi trên giường đọc cuốn "Chiến tranh và hòa bình" lần thứ hai, rất cần mẫn giở trang, song chẳng lọt vào đầu tí gì cả. Không bao lâu sau có người gõ cửa, là Khương Thải Vi bưng sọt thêu thùa đến.

Khương Thải Vi nói: "Thận Ngữ này, dì đan cho cháu một đôi găng tay, nên muốn hỏi cháu thích lót nhung hay bông vào?"

Kỷ Thận Ngữ được ưu ái mà hãi: "Đan cho cháu ấy hả? Thật ạ?"

Khương Thải Vi bị phản ứng của cậu chọc cười: "Đúng vậy, dì vừa học được đó, đan không tốt lắm đâu."

Trước đây cậu theo Kỷ Phương Hứa, không phải lo ăn lo mặc, cũng chẳng có ai bận tâm đến những chuyện nhỏ nhặt, lúc Kỷ Thận Ngữ nhận sợi len còn háo hứng đến nỗi tay túa mồ hôi. Khương Thải Vi mở ra cho cậu xem: "Vừa đan xong một chiếc, vốn là cổ găng tay nhún, nhưng thấy lọt gió nên tháo ra rồi."

Kỷ Thận Ngữ vội ướm vào tay: "Hình như hơi rộng thật." Đâu chỉ "hơi", mà buông thõng tay xuống còn rơi được ấy chứ.

Khương Thải Vi lúng túng mỉm cười: "Dì nên đo cỡ trước mới phải, đan lần đầu, nên không chính xác được."

Kỷ Thận Ngữ xác nhận: "Lần đầu tiên dì đan, là để tặng cho cháu ạ?"

Khương Thải Vi bị hút hồn bởi ánh sáng trong đôi mắt cậu, trả lời chậm nửa nhịp: "... Ừ, nơi đây là nhà của cháu, cháu ở nhà thì không cần thấy mình khác với mọi người, hiểu chưa?"

Kỷ Thận Ngữ gật đầu, sau đó Khương Thải Vi đo cỡ tay của cậu, cậu duỗi ngón tay ra không dám động đậy, lúc được đối phương chạm vào, tim đập loạn nhịp.

Đây là lần đầu tiên cậu chạm tay con gái, nhúc nhích một tí thôi cũng sợ không đủ quân tử. Đợi Khương Thải Vi đi rồi, cậu nào nhớ đến nỗi sầu ưu nữa, nằm trên giường lăn lộn đợi mùa đông đến nhanh hơn, muốn đeo đôi găng tay mới tinh ngay lập tức.

Khương Thải Vi về tiền viện, vào phòng thì thấy giấy gói kẹo trên bàn: "Cháu ăn sạch sô-cô-la của dì rồi à?!"

Đinh Hán Bạch ngẫm mùi vị: "Cháu sợ dì ăn sẽ mập, mà mập thì khó tìm dượng út lắm." Ngày nào hắn cũng quanh quẩn bên ranh giới khoan nhượng của Khương Thải Vi, thi thoảng giẫm lên ranh giới vẫn dỗ dành được, "Sao, cậu nhóc thấy găng có vui không?"

Khương Thải Vi đáp: "Vui lắm, nghe dì bảo đan găng tay cho nó, mắt sáng rực." Cô đập Đinh Hán Bạch một cái, "Đều tại cháu đó, đột nhiên qua bảo dì an ủi người ta, còn gạt người ta nữa, suýt nữa là lòi đuôi rồi."

Đinh Hán Bạch cầm một chiếc găng lên, kích cỡ đó vừa nhìn cái đã biết là khá vừa với hắn, hắn bèn cười rồi né sang một bên: "Thế lót nhiều bông nhé dì, đừng để đôi tay phương Nam ấy bị tổn thương do giá rét phương Bắc đó."

Hắn ở thêm một chốc, khi về thì phòng ai nấy cũng đã tắt đèn, mái hiên tích nước, lúc đi ngang qua cửa sổ phòng Kỷ Thận Ngữ vẫn có thể nghe thấy tiếng động bên trong. Í a í a, hát một khúc dân ca, hắn dừng bước nghe đôi ba câu, nghe không rõ từ, song vẫn giơ tay đập phách.

Kỷ Thận Ngữ nhổm phắt dậy khỏi giường, lăn mình đến bên cửa sổ, nói: "Ra là một tên trộm nhiệt thành với âm nhạc."

Đinh Hán Bạch đập cửa sổ: "Đậu xanh, tắt đèn còn không ngủ đi, ngâm nga tà âm gì nữa."

Kỷ Thận Ngữ đáp: "Dì út đan găng tay cho em đó." Giọng điệu khoe khoang, chứa đựng sự phấn khích không thể xem nhẹ, "Em muốn tặng dì một cái vòng tay, anh đưa em ra chợ vật liệu được không?"

Đinh Hán Bạch hỏi: "Có phải anh còn phải cho cậu mượn tiền không?"

Kỷ Thận Ngữ đẩy mạnh cửa sổ ra, tóm lấy cổ tay Đinh Hán Bạch rồi cười ha ha, như bị điên. Đinh Hán Bạch chẳng nhìn rõ nổi dưới cảnh tối lửa tắt đèn này, chỉ đành kề sát vào, sợ người trong phòng nhào ra rồi ngã.

Cổ tay nới lỏng ra, Kỷ Thận Ngữ nói: "Đã nhớ cỡ rồi, em cũng làm một cái cho anh."

Đinh Hán Bạch mạnh miệng: "Ai lạ gì, anh chỉ đeo đồng hồ thôi."

Cửa sổ lại bị đóng, giọng nói trở nên mờ ảo, câu chữ đều tan ra dưới nước mưa tí tách... Vậy em vẫn muốn tặng, Kỷ Thận Ngữ nói. Đinh Hán Bạch lặng thinh một lát, thốt một câu cực nhỏ, "Ngủ ngon".

Cất mấy bước về phòng, hắn tháo chiếc đồng hồ trên cổ tay xuống.

Editor: Vì em Ngữ đã bái sư rồi nên từ nay về sau, xưng hô giữa Lương Hạc Thừa và em Ngữ sẽ là: Ta-con, con-người nhé.

Mà anh Bạch nhé, mạnh miệng cho lắm có ngày nghiệp quật =))

*Chú thích:

1. Cặp chén họa tiết rồng cưỡi mây đỏ

Xem ảnh 1

2. Nắp ấm bằng gốm Yue

Xem ảnh 2

3. Chén Bát Tiên bằng sứ Thanh Hoa

Xem ảnh 3

4. Bát rửa bút men trắng hình lá sen

Xem ảnh 4

Chương 18: Anh cứ ôm đó!

*Chương có nội dung hình ảnh

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Dú

Chương 18 – Anh cứ ôm đó!

Bên cạnh chợ vật liệu Villeurbanne là một nhà hàng Pháp, hồi trước kinh doanh rất ế ẩm, sau đổi sang bán sữa đậu nành và bánh quẩy nên dần khấm khá hơn. Lúc này Kỷ Thận Ngữ đang ngồi trên chiếc sofa da, thưởng thức hoa tươi lẫn nến trên bàn, ăn bánh quẩy kèm dưa muối... Khẩu vị lẫn tâm trạng phức tạp y như nhau.

Đinh Hán Bạch kể: "Vào thời kỳ bị xâm lược, đây là một khách sạn người Pháp mở, tên là khách sạn Villeurbanne. Sau này chợ vật liệu không đổi tên, buôn bán tốt, rất nhiều người nước ngoài toàn đến đây giao dịch, hàng nhập khẩu cũng nhiều nhất. Còn về nhà hàng này thì, mấy năm trước đổi chủ, không động vào bất cứ thứ gì, chỉ chuyển thành đồ Trung Quốc thôi."

Kỷ Thận Ngữ im lặng nghe phổ cập kiến thức, uống hết một cốc sữa đậu nành, sau đó giữ sót lại một ít rồi bám theo Đinh Hán Bạch rời đi. Khách hàng đang lui tới trong chợ, trừ bán vật liệu ra thì cũng không hề thiếu các cửa hàng bán thành phẩm, rất đáng dạo một vòng.

Kỷ Thận Ngữ đứng trước một tủ quầy kính, bị hấp dẫn bởi một mặt hàng thủ công mỹ nghệ tỉnh xảo, "Sư ca ơi, đây đều là đồ cổ nước ngoài ạ?" Cậu xoay mặt sang hỏi, "Hay là đồ giả cổ?"

Đinh Hán Bạch nói: "Đồ giả cổ thôi, nhưng tay nghề thợ lẫn chất gỗ đều tốt cả."

Trong tủ kính là một chiếc bàn tròn trắng tinh, trên bàn là một cặp chân cắm nến nhiều tay phong cách Baroque mạ vàng, và một bộ trà cụ bằng bạc phong cách văn hóa Phục Hưng, Đinh Hán Bạch thấy cái vẻ mê mẩn của Kỷ Thận Ngữ bèn hỏi, "Thích à?"

Kỷ Thận Ngữ vẽ tên tấm thủy tinh, đẹp, thích ạ.

"Vậy cậu mua cái tách về mà uống trà." Quan niệm của Đinh Hán Bạch rất đỗi đơn giản, thích thì nhích thôi. Kỷ Thận Ngữ vẫn suy nghĩ nhiều: "Đồ trong nhà toàn là kiểu Trung cả, không hợp rơ, đợi sau này em sống ở biệt thự hẵng mua."

Đinh Hán Bạch hỏi: "Vậy khi nào ngài sẽ sống ở biệt thự thế?" Lòng hắn thầm nghĩ, sáng nay còn lề mà lề mề lục lọi quỹ đen ra kiểm kê, thế mà sống biệt thự gì, có mà sống ở nhà ngang ấy.

Hắn có một thứ khí chất bẩm sinh, dù không nói năng gì cũng có thể bộc lộ suy nghĩ. Kỷ Thận Ngữ ngoái đầu nhìn hắn một lát thì nhìn thấu hắn đang oán thầm điều chi. Dạo qua dạo lại, chẳng hề giao tiếp lấy một lời, cũng chẳng biết còn giữ lời hứa tặng vòng tay không đây.

Có một cửa hàng nọ, chủ yếu toàn bán đá Tiết Gà, nhũ đỏ và màu trắng giao thoa, đẹp khôn cùng. Bức tượng trắng đỏ mà Kỷ Thận Ngữ đã tặng cho Khương Thải Vi cũng giống như vậy, chẳng qua nó trong suốt hơn, nên về màu sắc cũng kém hơn.

Da Khương Thải Vi trắng, nếu đeo với màu này thì chắc chắn sẽ rất đẹp. Cậu vẫn muốn trưng cầu ý kiến của Đinh Hán Bạch nữa, nào ngờ Đinh Hán Bạch lại nói: "Đá Tiết Gà không tệ, lấy cái này làm cho anh đi."

Kỷ Thận Ngữ đành hỏi: "Hay em làm một đôi, anh với dì mỗi người một cái nhé?"

Thế mà Đinh Hán Bạch như nuốt phải ruồi: "Chẳng phải chị em mẹ con gì cho cam, sao phải đeo một đôi?!"

Đều tại Khương Thải Vi còn trẻ nên Kỷ Thận Ngữ không có cái cảm giác cô là người lớn, mà giống chị gái hơn. Cậu tập trung lựa, chọn đá để Khương Thải Vi dùng xong rồi, nghĩ đến chuyện Đinh Hán Bạch là con trai nên bắt đầu chần chờ về tỉ lệ trắng đỏ.

"Sư ca này, anh thật sự muốn đá Tiết Gà ạ?"

"Chỉ muốn đá Tiết Gà thôi." Khương Thải Vi dùng cái nào thì hắn không dùng cái đó.

Kỷ Thận Ngữ ngẫm nghĩ: "Thế em không làm vòng tay cho anh nữa đâu."

Đinh Hán Bạch vô cớ nổi đóa: "Thì ban đầu anh cũng có muốn đâu, thích làm thì làm không thì thôi. Chỉ muốn gạt anh đưa cậu đi dạo phố, xe đón xe đưa còn được mời ăn sáng, vẫn chưa sống ở biệt thự mà đã nổi tính thiếu gia rồi. Đá Tiết Gà á? Kể cả đá Phượng Hoàng anh còn chẳng thích đeo kia kìa."

Một tràng pháo liên thanh khiến Kỷ Thận Ngữ ngớ người, cầm viên đá to bằng nửa bàn tay sửng sốt, mãi không hiểu Đinh Hán Bạch đang mắng gì. "Em, em làm gì anh à?" Cậu khá là ấm ức, "Em cảm thấy đá Tiết Gà đỏ quá, anh đeo vòng lên tay không hợp, nên muốn đổi sang khắc dấu... Không ưng thì thôi, anh cáu làm gì?"

Đinh Hán Bạch nhanh miệng quá nên làm đối phương hiểu lầm, lúc này mặt mũi dưới lớp áo đều đi tong, đỏ mặt trăm năm khó gặp một lần. Hắn lấy ví ra, định tiêu tiền để mua tôn nghiêm: "Ông chủ, tính tiền."

Kỷ Thận Ngữ không tha cho hắn: "Em có tiền mà, người như anh mà sống ở Dương Châu thì đã bị ném vào hồ Sấu Tây uống nước rồi đó."

Lần đi dạo tiếp theo, Kỷ Thận Ngữ thật sự làm thiếu gia quan tâm vẻ ngoài, chỉ chừa mỗi cái ót cho Đinh Hán Bạch. Đinh Hán Bạch có hỏi gì, cậu toàn vờ như không nghe thấy. Đinh Hán Bạch hỏi tiếp, cậu toàn cười lạnh. Hai người như đi diễn kịch vậy, diễn vòng diễn vèo rồi mới cúi chào cảm ơn.

Đinh Hán Bạch khởi động ô tô: "Anh muốn ăn mỳ tương đen."

Kỷ Thận Ngữ đối nghịch: "Em muốn ăn sashimi."

Đinh Hán Bạch nắm vô-lăng thở dài, hắn đã nghĩ thông rồi, mình không chịu xuống nước nhận sai, lại không dỗ dành được đối phương, vậy cứ để nợ đó đi, nợ tới nợ lui có khi còn thoải mái hơn ấy chứ. Đương nhiên, chủ yếu là tại hắn không thích sashimi, nên hoàn toàn không muốn nhân nhượng tí nào.

Tắt máy xuống xe, Kỷ Thận Ngữ nhìn biển hiệu của quán mỳ thì hết cách, đến khi vào ngồi xuống gọi món thì lóa mắt bởi mười loại mỳ tương đen. Thật ra cậu chưa bao giờ ăn cả, theo tưởng tượng thì sợi mì quệt tương lên là được, sao có nhiều loại thế này?

"Đây là nguyên liệu, chọn mấy loại mình thích đi." Đinh Hán Bạch nói với phục vụ, "Đậu nành, giăm-bông, dưa chuột, cải thảo, củ cải đỏ, mỳ trụng nước lạnh ba lần. Nửa vịt quay mật, trộn với măng tây, bốn miếng kinh cao*."

(*Kinh cao: Là một loại bánh truyền thống nổi tiếng ở thành phố Bắc Kinh.)

Kỷ Thận Ngữ học vẹt: "Đậu nành, giăm-bông, dưa chuột, sashimi."

Phục vụ vội nói không có sashimi, Đinh Hán Bạch dở khóc dở cười, đang đói meo đói mốc nên cũng lười phân tranh cao thấp. Trong lúc đợi đồ ăn, cả hai đều im lặng, đồ ăn được đưa lên lại càng im lặng hơn.

Ăn thì ít mà bát thì to, Đinh Hán Bạch dùng đũa đảo, khuấy mì tương đen loạn lên đến nỗi chẳng phân biệt được thứ gì nữa, trộn hết các nguyên liệu đến khi không nhìn ra màu gốc của chúng, lại gắp một miếng vịt quay mật lên, việc lớn đã thành, bèn đẩy ra trước mặt Kỷ Thận Ngữ.

Im ỉm cướp cái bát khác, trộn xong thì bắt đầu ăn, khi ở nhà hắn và Kỷ Thận Ngữ ngồi kế bên nhau, giờ thì người nào người nấy thủ một góc bàn. Cắm đầu cắm cổ ăn một chốc, tiếng húp mì bên cạnh lớn hơn, nhìn thoáng qua, Kỷ Thận Ngữ đã ăn thành miệng hoa mất rồi.

Tối qua chột dạ nên không ăn được no, Kỷ Thận Ngữ đã đói meo từ lâu, nuốt một miếng mà thấy ngon khôn cùng. Cậu nghĩ chẳng qua chỉ là mì màu đen sì thôi, nào ngờ mùi nồng nhưng ngon đáo để, ăn một lần là không dừng được nữa. Đợi đến khi cơn đói dần tan, tốc độ ăn cũng chậm dần, cậu gắp một miếng thịt vịt quay lên, ăn đến nỗi ngoài miệng toàn lem tương đen, với tay lấy hộp giấy thì nhận ra hộp giấy đã rỗng.

"Phục vụ --" Cậu vẫn chưa nói xong.

Cuối cùng Đinh Hán Bạch cũng tìm được cơ hội phá băng, bèn vươn tay lau thứ dính lên miệng Kỷ Thận Ngữ, khiến ngón tay bị dính dầu dính mỡ. Hắn thừa dịp Kỷ Thận Ngữ sững sờ bèn thấp giọng nói: "Làm lành với anh đi."

Sau khi giấy ăn được bổ sung đầy, hắn rút giấy ra lau tay, lau tay xong thì buông tay xuống bàn, các ngón tay hơi cuộn lại. Dường như từng đường hoa văn trên đầu ngón tay cũng đều kinh ngạc, tại sao đôi môi ấy lại mềm mại đến vậy, sợ rằng dùng sức thêm thôi sẽ rách.

Hoàn hồn rồi ăn tiếp, trong bát có thêm miếng măng tây, mắt hoạt động tốt quá nên bắt gặp rõ ràng cái nhìn len lén của Kỷ Thận Ngữ. Hắn cụp mắt hỏi: "Người như anh, sống ở Dương Châu sẽ bị ném xuống hồ Sấu Tây uống nước thật hả?"

Kỷ Thận Ngữ nói lảng sang chuyện khác: "Khắc gì lên con dấu đây ạ, hoa khai phú quý* thì sao?"

Đinh Hán Bạch cười nhạt: "Thường quá."

"Vậy linh hầu hiến thọ*?"

"Anh qua sinh nhật rồi."

"Trúc lâm thất hiền?"

"To bằng nửa bàn tay mà khắc bảy người, bộ nước của người tí hon à?"

(*Hoa khai phú quý: Là một bức tranh cát tường truyền thống của Trung Quốc, lấy hình chủ đạo là hoa Mẫu Đơn – đồng thời cũng là loài hoa của phú quý, dùng để nói rằng con người đều hướng đến một cuộc sống mỹ mãn và hạnh phúc, giàu có và cao quý.

*Linh hầu hiến thọ: Dùng để chúc trường thọ.

*Trúc lâm thất hiền: Là tên dân gian gọi bảy học giả, nhà văn và nhạc sĩ theo trường phái Đạo giáo sống trong rừng trúc thời đầu nhà Tấn.)

Đinh Hán Bạch trả treo khiến đối phương cạn lời, nên cũng im lặng ăn mì tiếp.

Trên đường về nhà đợi đèn đỏ, Kỷ Thận Ngữ thấy bên góc đường có bà cụ bán vàng mã, hôm nay cậu hào hứng, cậu cáu bẳn, giờ lại gợn buồn man mác. Đinh Hán Bạch nhìn theo đường nhìn của cậu, bèn thẳng thừng đỗ xe ven đó, bảo cậu đi mua hai bao.

Suốt cả nửa dọc đường còn lại, Kỷ Thận Ngữ cứ ôm giấy vàng mã lẫn tiền vàng suốt, lúc sắp đến cửa nhà thì hỏi: "Sư phụ an táng ở Dương Châu, em mua có ích gì không?"

Đinh Hán Bạch nói: "Chẳng lẽ rất nhiều người đi xa xứ không cúng bái à? Đêm mai tìm một con đường mà đốt, nói dăm ba câu, thầy Kỷ sẽ nhận được." Hắn nói xong bèn suy nghĩ, mai tan tầm không có xã giao, có thể đưa đối phương đi.

Kỷ Thận Ngữ lại nói: "Vậy em tìm dì đưa em đi, tiện thể hỏi xem dì thích lắc tay hay vòng tay."

Đinh Hán Bạch sửa miệng, "... Ừ, cậu xem mà làm." Hắn cảm thấy mình lại bị sa thải nữa rồi, bèn hít sâu khuyên mình cười một cái, được nhàn rỗi có gì mà không tốt. Rút chìa xuống xe, rốt cuộc nghẹn mãi vẫn không nhịn nổi, bèn mắng một câu "Đồ ăn cháo đá bát."

Hôm sau, ai nấy đều đi làm cả, Khương Thải Vi đồng ý với yêu cầu của Kỷ Thận Ngữ, bèn hẹn tối đi hóa vàng mã. Xưa giờ ngày nào đi làm Đinh Hán Bạch cũng chẳng hào hứng, trưng cái mặt tỉnh rụi không để ý một ai, trước khi đi còn ôm theo bình Mao Đài.

Khương Sấu Liễu ngăn hắn lại: "Đi làm mang rượu làm gì? Con còn muốn uống tận hai xị?"

Đinh Hán Bạch đáp: "Con tặng quà cho sếp, con muốn làm tổ trưởng."

Hắn biết đối phó với mẹ nhất, bèn tránh ra rồi chạy đi luôn, lái xe thẳng đến Cục Di sản văn hóa, cất rượu làm việc đến tận trưa. Đến giờ nghỉ trưa cái là lủi đi, số 57 Sùng Thủy, xách cả rượu theo, hắn muốn nhìn lư hương gốm Ge hàng thật.

Hàng chuỗi ngõ ngách làm hắn phải mò lâu, cái sân nào cũng xập xệ cả, song mùi cơm bay ra lại rất thơm, rốt cuộc cũng tìm thấy cửa nhà, Đinh Hán Bạch lấy hơi hét to: "Gom đồ vỡ đây— Gom máy hút mùi cũ đây—"

Dư âm vẫn đang lởn vởn thì Trương Tư Niên cầm bánh mì xông ra: "Thằng chó chết nào cướp việc làm ăn từ miệng bọn tao vậy?! Bắt nạt người tàn tật, tao đến liên đoàn người khuyết tật tố cáo mày!"

Tập trung nhìn thì thấy Đinh Hán Bạch xách bình Mao Đài đứng ngay cửa, trông như cậu ấm phá sản đi thăm nhân dân khốn khổ vậy, một phần quan tâm, chín phần ghét bỏ. Cậu ấm sải bước mà vào, nhìn quanh một vòng bĩu môi, hối hận vì không hẹn ở ngoài.

Trương Tư Niên quay đầu vào nhà: "Khỏi phải ghét, cùng lắm thì về nhà tắm hai lần."

Đinh Hán Bạch bám gót theo sau, cơ sở trong phòng đã cũ, nhưng vẫn coi là sạch sẽ, chẳng nhiều phế phẩm như ở ngoài sân. Hắn ngồi xuống trước bàn, mở và rót rượu một cách tự nhiên, chạm chén với đối phương, uống cạn.

"Đậu phụ muối nhắm rượu nhé?"

"Chẳng phải chỉ có mỗi khoai tây sợi à?"

Đinh Hán Bạch chú ý đến bình hoa trăm chữ Thọ trên bàn, chỉ thấy Trương Tư Niên thọc đũa vào, gắp mấy miếng đậu phụ muối ra, đậu phụ dính nước chua lẫn ớt đã băm nhỏ... Hắn điếng người, đây là cái bình hoa mười vạn! Dùng để đựng đậu phụ!

Mấu chốt là hoàn cảnh sinh sống khốn khó đến thế mà còn xa hoa vẹo gì?!

Trương Tư Niên nói: "Đồ của tên Lương sáu ngón đó làm chỉ xứng để dùng thế này thôi."

Đinh Hán Bạch không biết ai là Lương sáu ngón, nhưng biết cách chọc giận người khác: "Dù có xứng hay không thì ông cũng chẳng nhận ra thật hay giả."

Đặt đũa xuống, Trương Tư Niên bị bắt thóp, bèn hận không thể rống lên hai lần cho hả giận. Ông không khóa phòng, đi vào tìm lư hương gốm Ge, Đinh Hán Bạch đuổi theo, tiếng bước chân dừng ở cửa, đến cả tiếng thở cũng dừng lại.

Trương Tư Niên nói: "Có đồ thật và đồ giả, chọn một món tặng cậu, tùy vào số hên của cậu."

Đinh Hán Bạch không thích chiếm hời, cũng không kìm được mà chiếm hời, bèn hỏi: "Ông là ai?"

Trương Tư Niên đáp: "Có duyên với cậu, nhưng tình cảm chưa đến mức đó, không thể trả lời."

Chiếc lư hương bị bịt kín, nếu không đón được sẽ bị ném vỡ ngay, đối phương chẳng hề quan tâm chút nào, một hai vạn gì đó thôi mà, xem như chúc luôn được bình an thôi. Đinh Hán Bạch đến nhìn, khẳng định món đồ này là thật, nhưng những thứ trong phòng lại khiến hắn hoa mắt.

Tình cảm không đủ, nếu đủ thì chắc là còn có cách nói khác đợi hắn?

"Tôi phải về đơn vị rồi." Hắn đặt lư hương xuống, trước khi đi bèn rót một chén đầy cho Trương Tư Niên. Trương Tư Niên cắn một miếng bánh mì, hỏi hắn chưa chọn đồ mà đã đi rồi à?

Đinh Hán Bạch nói: "Không, để lần sau đến hẵng chọn."

Lần sau, tình cảm phải đủ.

Trời hôm nay mát mẻ, chạng vạng thì hơi lạnh. Kỷ Thận Ngữ trông cửa hàng Ngọc Tiêu Ký, sau khi về nhà thì mong ngóng đợi tối hóa vàng mã, kết quả Khương Thải Vi không về đúng hẹn, cậu bèn ngồi bên bàn đá đợi đến tận tám giờ rưỡi.

Đinh Hán Bạch bận rộn trong phòng cơ khí, sau khi tắt đèn khóa cửa thì đi từ phòng Nam đến phòng Bắc, thấy Kỷ Thận Ngữ còn chờ. Tắm xong đi ra, thấy Kỷ Thận Ngữ vẫn đang chờ. Đi đến thư phòng vẽ đến tận mười một giờ đêm, chuẩn bị đi ngủ, thấy Kỷ Thận Ngữ hãy còn chờ.

Hắn thật sự không nhịn nổi nữa: "Hai người hẹn đi đốt vàng mã vào nửa đêm à? Gan to quá nhỉ."

Kỷ Thận Ngữ nói: "Dì vẫn chưa về, dì bảo tăng ca ở tòa soạn báo."

Đinh Hán Bạch lo lắng cho Khương Thải Vi, bèn cầm chìa khóa chuẩn bị đi đón, trước khi đi thì nhận điện thoại từ Khương Thải Vi. Hắn đi ra khỏi phòng, nói: "Dì gọi bảo hôm nay mệt quá, bèn ngủ ở ký túc xá nhân viên luôn, không về."

Bóng đèn sáng quá, sự hụt hẫng của Kỷ Thận Ngữ không có chỗ nào che giấu được cả. Đinh Hán Bạch đứng ở cửa, bóng người như đổ dài, nếu Kỷ Thận Ngữ cầu hắn dẫn đi, hắn sẽ vất vả một chuyến vậy, nhưng hắn không chủ động hỏi.

Ai đi làm mà chẳng mệt, tại sao lại phải làm quân dự bị, muốn là phải chạy đến chứ?

"Sư ca, anh có thể..." Kỷ Thận Ngữ mở lời, "Có thể cho em mượn chìa khóa xe đạp không, em tìm đại một con đường để đốt, rồi về nhanh thôi."

Đinh Hán Bạch nói: "Xịt lốp rồi, không thì cậu lái ô tô mà đi?" Hắn thấy lạ, sao thằng nhóc này cứ trái nghịch với suy nghĩ của hắn vậy?

Tuổi mụ Kỷ Thận Ngữ là mười bảy, nào được lái xe, bèn hỏi: "Anh bằng lòng chở em đi không?"

Hai mươi phút sau, Đinh Hán Bạch chở Kỷ Thận Ngữ đi tìm một con đường không có cảnh sát giao thông trực, lúc này người đi trên đường rất ít, dưới ánh đèn đường, bọn họ lấy giấy vàng mã lẫn tiền vàng ra, dựa vào nhau như đang sưởi ấm.

Đôi mắt Kỷ Thận Ngữ sáng đến lạ, nhưng ánh nhìn hơi dại ra, khá bần thần.

"Bố." Cậu gọi, gọi xong thì lặng thinh rất lâu, "Con có nhớ bố mà, nhưng con cũng đành chịu thôi, con không có nhà ở Dương Châu, bố đừng trách con nhé."

Đinh Hán Bạch gắng bỏ thêm tiền vàng: "Thầy Kỷ à, cậu ấy sống ở nhà con rất tốt, người cứ yên tâm."

Kỷ Thận Ngữ chỉ nói một câu như vậy, sau đó chỉ nhìn chằm chặp ngọn lửa đốt mọi thứ thành tro. Cậu không phải người cởi mở, hóa vàng mã cúng tế giữa trời đất, lại ngay trước mặt người ngoài khiến cậu không nói được lời nào khác nữa, chỉ âm thầm nghĩ suy trong lòng, hi vọng Kỷ Phương Hứa có thể nhận được.

Đốt xong thì dọn sạch sẽ, vào xe bị bóng tối bủa vây, Đinh Hán Bạch nghe rõ mồn một Kỷ Thận Ngữ đang sụt sịt.

Khóc à? Hắn nghĩ.

Yên lặng một chốc, Kỷ Thận Ngữ nhìn hắn, hai má sạch sẽ, mắt ướt nhẹp, nuốt hết nước mắt vào trong. Hắn cởi dây an toàn ra, hơi xoay người về phía đối phương, hỏi: "Ôm cậu nhé?"

Kỷ Thận Ngữ miệng cọp gan thỏ: "Có gì đâu mà ôm, hóa vàng mã thôi, còn chẳng phải đưa tang nữa là."

Lặp đi lặp lại mấy lần mà chẳng thấy mặt mũi đâu, Đinh Hán Bạch chẳng thể nhẫn nại thêm nữa, bèn ném chìa khóa lên bàn điều khiển: "Anh cứ ôm đấy!" Cánh tay dài của hắn vươn tới, ôm Kỷ Thận Ngữ vào lòng, ôm eo lưng, đè gáy, chóp mũi đối phương đập vào cằm hắn, lành lạnh, môi phảng phất cọ vào cổ hắn, vẫn mềm mại biết bao.

Kỷ Thận Ngữ không giãy ra nổi, chửi đồ thần kinh, mắng đồ khốn kiếp, chỉ mắng đi mắng lại mỗi hai từ này.

Sau đó, cậu mệt, buông thõng tay, nhắm mắt. Ngập ngừng nói câu cảm ơn anh.

Đinh Hán Bạch nên đáp "Đừng khách sáo", song hắn lại nóng đầu một cách vô cớ, bèn nói câu "Không có gì".

*Chú thích:

1. Chân cắm nến nhiều tay phong cách Baroque mạ vàng:

Xem ảnh 1

2. Bộ trà cụ bằng bạc phong cách văn hóa Phục Hưng:

Xem ảnh 2

3. Kinh cao:

Xem ảnh 3

Chương 19: Trai giả gái

Edit: Dú

Chương 19: Trai giả gái

Sắp đến khai giảng, Đinh Duyên Thọ cho Kỷ Thận Ngữ nghỉ ngơi mấy ngày, không phải đến Ngọc Tiêu Ký giúp việc, vì vậy Đinh Nhĩ Hòa và Đinh Khả Dũ chủ động ôm việc hết, tỏ ra mình biết chú ý nhiều hơn. Kỷ Thận Ngữ thấy vậy bèn yên tâm nghỉ, nếu không sẽ càng khiến hai anh em kia thêm ghét.

"Ra ngoài à?" Trước khi đi làm, Đinh Hán Bạch hỏi.

Kỷ Thận Ngữ gật đầu, cậu muốn đi tìm Lương Hạc Thừa.

Đinh Hán Bạch hiểu lầm, bèn dặn: "Đi chơi với bạn đừng gây chuyện nhé, ăn uống là được."

Đợi đến khi người trong nhà đi hết sạch, Kỷ Thận Ngữ mới vào bếp làm một nồi canh, xách bao lớn bao nhỏ chạy đến ngõ Miểu An. Lần trước đã dọn sân, hôm nay thì khác, cậu vừa vào cửa đã thấy Lương Hạc Thừa đứng trong sân luyện Thái Cực quyền, chỉ là động tác mềm oặt không có lực.

"Sư phụ à, tinh thần tốt đấy." Cậu tự giác vào nhà dọn dẹp, khi múc canh thì chạy ra hỏi, "Sư phụ ơi, người dùng bát họa tiết rồng khắc chìm sứ vàng, hay dùng bát chín quả đào hồng ạ?"

Lương Hạc Thừa cười to: "Con bớt lấy ta làm trò cười đi."

Kỷ Thận Ngữ rót canh vào bát chín quả đào hồng: "Người bày ra không phải để cho con thấy à? Thấy rồi không phải sẽ kiểm tra ư? Kiểm tra không qua người sẽ dạy."

Lương Hạc Thừa khen không ngớt miệng, vừa thích món canh thơm ngon này, vừa hài lòng về đồ đệ thông minh của mình. Ông uống xong bèn hỏi: "Tại sao ta lại chọn hai bát này để hỏi?"

Kỷ Thận Ngữ đáp: "Bát họa tiết rồng có miệng rộng, góc nhỏ khó bắt, rất dễ sơ suất; nét họa tiết hai rồng vờn châu phức tạp, khắc chìm không lộ rõ nên tỉ lệ khuyết điểm cao; vách và lòng bát hồng kia có cùng một kiểu vẽ, vẽ hơi khác đi một chút là hỏng ngay."

Hai bát này đại diện cho hai kiểu đồ có độ khó rất cao, một loại có họa tiết, một loại có tranh. Lương Hạc Thừa chẳng kiểm tra Kỷ Thận Ngữ ngay, đặt bát xuống rồi luyện Thái Cực quyền, nhưng đang mở cờ trong bụng, nắm đấm cũng có sức hơn.

Kỷ Thận Ngữ mong ngóng đợi học nghề, trước khi đến đã soạn một hai ba bốn, muốn thỉnh giáo từng cái một. Lương Hạc Thừa lại chẳng vội vàng tí nào, muốn mở mang về quá trình tỉ mẩn chạm khắc ngọc.

Nhưng Kỷ Thận Ngữ lại thành thầy trước: "Đây là đá Tiết Gà, con muốn khắc một con dấu."

Lương Hạc Thừa hỏi: "Nếu so sánh với nhau thì con thích chế tạo đồ cổ hay chạm khắc hơn?"

Kỷ Thận Ngữ suy nghĩ: "Trình tự chế tạo đồ cổ đa dạng, thú vị hơn chạm khắc, nhưng chỉ là đơn thuần phỏng chế theo, không phải tự mình suy ngẫm như điêu khắc, cân sức ngang tài ạ." Đáp xong, cậu ngắm trúng bình hoa nào đó, "Sư phụ ơi, món đồ người làm thành công nhất là gì?"

Sau khi tra ra bệnh ung thư, Lương Hạc Thừa không làm gì nữa, nằm ở nhà suốt nửa tháng, thơ thẩn. Chút tài hoa này không có ai nối nghiệp, mình nằm viện chữa bệnh lại thấy bơ vơ gấp bội, nên càng thấy thẫn thờ hơn. Sau lại nghĩ dù gì cũng chẳng còn sống được mấy năm, thể nào cũng phải để lại một, hai thành quả đắc ý nhất, bởi vậy dốc hết sức làm bình hoa trăm chữ Thọ kia.

Ông không có tiền tiêu bèn lấy một món bán ra ngoài, không gạt người mua, chỉ dựa vào giá đồ giả cổ mà bán. Không ngờ lại gặp được Kỷ Thận Ngữ, duyên phận tới, cũng có thể là ông trời thương xót ông, ông bèn tặng bình hoa trăm chữ Thọ đi.

Kỷ Thận Ngữ nghe xong bèn hỏi: "Trước đó người từng nói lão Trương mù cũng chưa chắc đã nhìn ra được thật hay giả, ai là lão Trương mù ạ?"

Lương Hạc Thừa hạ thấp giọng: "Ông ta là đối thủ một mất một còn của sư phụ con, ông ta mù, còn ta thì sáu ngón..."

Kỷ Thận Ngữ nghe mà hào hứng: "Người chọt mù mắt ông ấy ạ?"

Cặp thầy trò mới quen nhau chưa bao lâu bèn vất chính sự đi, mặt đối mặt uống canh, huyên thuyên không dứt, tiếng cười không ngớt. Nhưng có người vui thì cũng có kẻ buồn, Đinh Hán Bạch định đi tìm Trương Tư Niên, ai ngờ trước khi đi thì bị Trương Dần phái đi làm việc.

Thành phố bên cạnh khai quật một ngôi mộ nhỏ, bảo hắn họp với Cục Di sản văn hóa địa phương, chỉ đi tầm một, hai ngày.

Đinh Hán Bạch về nhà dọn quần áo, vừa vào tiền viện đã ngửi thấy một mùi thơm phưng phức, là Khương Sấu Liễu đang nấu cơm trong bếp. Mới sáng ra sao về nhà nấu cơm nhỉ? Hắn đi vào theo hướng phòng ngủ của đối phương, mẹ hắn đang ở phòng của Khương Thải Vi, hắn cũng vào, khiến hai chị em nọ giật mình.

Mặt Khương Thải Vi tái mét, miệng còn bị rách, gắng nở nụ cười gượng.

Đinh Hán Bạch hỏi: "Xin nghỉ à? Không thoải mái?"

Khương Sấu Liễu trả lời thay em gái: "Ừ, con về làm gì vậy?"

"Con về dọn đồ đạc bỏ nhà đi bụi, hai ngày nữa về." Đinh Hán Bạch nói xong thì đi ra ngoài, mẹ hắn chẳng quan tâm hắn nói gì. Khương Sấu Liễu ngồi bên giường đút cơm cho Khương Thải Vi, đút được hai miếng thì ngừng, lau nước mắt cho cô.

"Đừng sợ." Chính Khương Sấu Liễu cũng khóc òa, "Chị dỗ em, thật ra lòng chị cũng nghĩ mà thấy sợ..."

Khương Thải Vi nhào vào lòng Khương Sấu Liễu: "Chị ơi, vết thương trên người em đau lắm..."

Sầm – Đinh Hán Bạch đứng ngoài cửa nghe đủ rồi bèn xông vào giường nửa ngồi xổm nhìn Khương Thải Vi: "Dì út, đêm qua dì tan tầm muộn, có phải đã xảy ra chuyện gì không?"

Khương Thải Vi không chịu nói, hắn nóng lòng la lên: "Dì chỉ nói với mẹ cháu thì có ích gì? Hai người ôm nhau khóc có thể giải quyết à? Nói với cháu đi, ai bắt nạt cháu với dì đi tìm kẻ đó, thương tích của dì là sao?!"

Hôm qua Khương Thải Vi tan làm muộn, cô lại nhớ đi hóa vàng mã với Kỷ Thận Ngữ, bèn đi vào ngõ tắt nhỏ, kết quả gặp phải tên lưu manh. Khi phản kháng bị đánh thương, may sao kêu cứu thì được một đồng nghiệp khác đi ngang qua nghe thấy, mới thoát hiểm. Tối qua cô ngủ một đêm ở nhà đồng nghiệp, sáng nay về chỉ kể với mỗi mình Khương Sấu Liễu.

Đinh Hán Bạch bỗng dưng đứng dậy, thở hồng hộc, thấy Khương Thải Vi khóc nức nở lại gắng kiềm chế, an ủi, "Dì út à, dì cứ nghỉ ngơi cho tốt đã, đợi khi nào tình hình dì ổn định, cũng đợi cháu về thì hẵng kể cụ thể tình huống hôm đó với cháu, chuyện này không thể để yên được."

Khương Sấu Liễu hỏi: "Đừng làm càn, con muốn làm gì?"

Đinh Hán Bạch nói tỉnh rụi: "Chỗ đó nằm kế bên tòa soạn và trường học, khó tránh khỏi trước đây đã từng có người gặp phải, mà kệ, không chắc sau này còn có cô gái nào gặp nạn nữa không. Không biết thì thôi, chứ đã biết thì không thể giả câm giả điếc được."

Hắn nói xong bèn đi dọn đồ đạc, Khương Thải Vi không ngăn mà bảo Khương Sấu Liễu ngăn. Cô không sợ bị người biết, mà là tối qua đã bị đánh phát sợ, lo Đinh Hán Bạch sẽ gặp chuyện gì.

Khương Sấu Liễu không cựa quậy, bưng cơm lên lần nữa: "Cứ tùy nó đi, một mình không làm được thì bảo Nhĩ Hòa với Khả Dũ đi cùng, còn cả Đình Ân lẫn Thận Ngữ nữa, nhà nhiều đứa lớn đứa nhỏ vầy, còn trị không nổi một thằng lưu manh à?"

Hôm đó Kỷ Thận Ngữ về thì Đinh Hán Bạch đã đi mất, còn để lại tờ giấy bảo cậu quét tước phòng cơ khí, cậu định chớp lấy cơ hội, cầm chìa khóa đi vào ngay tức khắc, yên tâm quan sát một cách lớn mật.

Vật liệu tốt chất đầy tủ, phân loại riêng, còn có một số món đã ra phôi, đều là những món bình thường Đinh Hán Bạch chưa làm xong. Kỷ Thận Ngữ mở một hộp gỗ ra, trong đó là tám miếng ngọc bài màu xanh được xếp ngay ngắn, nhiều lớp chạm khắc, nội dung là câu chuyện về nhân vật, tám miếng là vừa kể xong. Câu chuyện gói gọn trên ngọc bài lớn năm xen-ti-mét, vô cùng phức tạp, tiểu thương, tôi tớ, đình đài, lầu các đều được miêu tả rất chi tiết, nét mảnh như sợi tóc, chính cậu dù có kiên nhẫn bậc đó, cũng không đạt được trình độ này.

Cuối cùng là lau máy móc, Kỷ Thận Ngữ cẩn thà cẩn thận lau sạch sẽ, khi khóa cửa thì nghe một tiếng Sầm, chậu trúc Phú Quý lần trước bị Đinh Hán Bạch đá ngã lăn quay giờ lại bị Khương Đình Ân cho thêm một cú nữa.

"Kỷ Trân Châu!"

Kỷ Thận Ngữ đã miễn dịch với cái xưng hô này, tỉnh bơ nhìn đối phương.

Khương Đình Ân vọt tới: "Anh tìm cô út kiểm tra bài tập, thế mà cô lại ngủ, còn không cho anh vào phòng, sau đó cô cả mắng anh một trận, bảo anh hai ngày này không được quấy rầy cô út."

Kỷ Thận Ngữ vừa nghe đã lo lắng hỏi: "Có phải dì út bị bệnh không?"

Khương Đình Ân đáp: "Bị bệnh mới cần người chăm sóc chứ, bình thường cô mà bị bệnh toàn sai vặt anh hết." Nói xong thì dừng, "Anh cảm thấy thế này, cô cũng đến tuổi rồi, có phải ăn cơm trước kẻng không? Tuy chưa từng nghe cô yêu ai bao giờ..."

Kỷ Thận Ngữ mắng: "Anh điên à? Suốt ngày cứ như thằng ngốc ấy!"

Khương Đình Ân là cỏ đầu tường*, bình thường chỉ coi mỗi Đinh Hán Bạch như Thiên Lôi sai đâu đánh đó, Đinh Hán Bạch không ở đây, ai dối đôi câu là đi theo người ta mất, vất vả lắm mới tự phân tích được tí việc, lại còn bị dạy dỗ một trận.

(*Cỏ đầu tường: Ý chỉ người không có lập trường, gió chiều nào theo chiều nấy.)

Hôm sau Kỷ Thận Ngữ dậy sớm, đợi suốt hai tiếng ở tiền viện, rốt cuộc Khương Thải Vi cũng lộ mặt. Tim cậu nhói đau, vốn tưởng đối phương chỉ không thoải mái thôi, sao trên mặt còn có vết thương thế này?

"Thận Ngữ?" Khương Thải Vi lộ vẻ mặt xấu hổ, "Sớm thế, có việc gì à?"

Kỷ Thận Ngữ nói: "Cháu có viên đá Tiết Gà, muốn làm đồ cho dì, dì thích lắc tay hay vòng tay ạ?"

Khương Thải Vi thuận miệng nói là lắc tay, nói xong lại về phòng. Kỷ Thận Ngữ không tiện đi theo, nhưng nhận ra đối phương đi lại còn khập khiễng, càng không an tâm rời đi, bèn xông lên hỏi: "Dì út, rốt cuộc dì bị sao vậy?"

Khương Đình Ân cũng lao đến từ phòng bên, tay để trần: "Cô út ơi, cô muốn cháu lo chết mất hả!"

Khương Thải Vi không thật sự bị lưu manh xâm phạm, cảm thấy bắt người ta cũng chẳng có cách nào nghiêm trị, nhưng hiện giờ ai nấy đều như đeo ra-đa, rống lên hỏi cô. Cô cũng lười giấu diếm, bèn dứt khoát kể luôn chuyện đêm đó.

Trong phòng lạch cà lạch cạch, mấy món đồ bị Khương Đình Ân nổi cáu đạp đổ, Kỷ Thận Ngữ thì ngồi đơ trên giường, áy náy nói: "Cháu xin lỗi, đều tại cháu bảo dì đưa cháu đi hóa vàng mã, không thì..."

Khương Thải Vi cắt ngang: "Cháu ngốc hay sao mà đã vậy rồi còn tra nguồn cơn? Chẳng ai sai cả, muốn trách thì hãy trách tên lưu manh kia ấy."

Rất nhanh sau đó, cả nhà cũng biết, nhà Khương Đình Ân cũng biết, bố cậu chàng Khương Tầm Trúc đến thăm em gái nhỏ, người lớn đứng dồn trong phòng ngủ. Bốn đứa thanh niên thì ngồi bàn đá ngoài tiểu viện, từ xa nhìn giống như chơi mạt chược.

Đinh Nhĩ Hòa lớn nhất, mở lời: "Ngõ tắt tối om, chắc chắn không thấy rõ mặt mũi của tên lưu manh."

Khương Đình Ân: "Vậy làm sao mà bắt? Làm sao mà biết ai là lưu manh?"

Đinh Khả Dũ nói: "Lưu manh cũng chẳng thấy rõ chúng ta."

Kỷ Thận Ngữ im lặng lắng nghe, hiểu ý của đối phương là dụ lưu manh ra trước, nghe thì có vẻ vớ vẩn, mà hình như cũng chẳng có biện pháp nào tốt hơn. Nếu dụ ra được tên lưu manh đã chặn Khương Thải Vi ngày hôm đó thì may, mà dù dụ được tên khác ra cũng không uổng.

Nhưng vấn đề là, ai dụ, và dụ thế nào?

Cậu nhìn chằm chặp vào mặt bàn tự hỏi, chợt nhận ra xung quanh im ắng quá, vừa ngước đầu lên thì phát hiện ra ba người đó đều đang nhìn mình. Anh hai anh ba không thân với cậu, vì vậy cậu hỏi Khương Đình Ân: "Anh nhìn em làm gì?"

Khương Đình Ân nói quanh co: "Hai người đó đều nhìn em, nên anh cũng nhìn..."

Kỷ Thận Ngữ trực tiếp đối mặt với tầm nhìn của Đinh Khả Dũ, ý không nói cũng hiểu, Đinh Khả Dũ cũng thoải mái, bèn nói toẹt ra: "Anh nghĩ thế này, tìm con gái làm mồi nhử không an toàn, huống hồ trừ dì út ra thì nhà chẳng có con gái nào nữa, cho nên chắc là trai giả gái. Sư đệ này, anh thấy cậu rất thích hợp."

Kỷ Thận Ngữ nói: "Em thấy anh trắng trẻo, lại quen đường quen nẻo, thích hợp hơn em mà." Cậu đá Khương Đình Ân dưới bàn, Khương Đình Ân lập tức gật đầu phụ họa.

"Anh nào có trắng bằng cậu, hơn nữa anh cao như vầy, lưu manh chẳng dám đè đâu." Đinh Khả Dũ trừng Khương Đình Ân, cổ Khương Đình Ân như bị vặn dây cót, tiện thể gật lia lịa. Lúc này, Đinh Nhĩ Hòa bèn nói: "Thận Ngữ à, vì vội về đi hóa vàng mã với cậu mà dì út mới gặp chuyện không may, nếu cậu chỉ hơi hi sinh một tí để tóm tên lưu manh thì..."

Kỷ Thận Ngữ không thốt nổi câu nào phản bác, cậu vốn đã tự trách bản thân sẵn, lại sợ Khương Thải Vi ngoài miệng không nói gì, nhưng thật ra trong lòng thầm trách cậu, hai câu đó của Đinh Nhĩ Hòa đã đâm trúng chỗ hiểm, cậu không dám từ chối thêm nữa.

Cả bốn người đều tự chuẩn bị, ai nấy đều có thể dùng dụng cụ điêu khắc trong nhà để làm hung khí, Khương Đình Ân còn giấu một viên đá Điền Hoàng, nặng hơn cả gạch nữa. Họ lên kế hoạch sau khi trời tối sẽ để Kỷ Thận Ngữ đi lại trong ngõ, những người khác thì ẩn núp, tranh thủ bắt lưu manh.

Kỷ Thận Ngữ đến tiền viện, đợi người đi hết rồi mới đến thăm Khương Thải Vi. "Dì út ơi?" Cậu thấy Khương Thải Vi đang nằm trên giường đan găng tay, để dời chú ý cũng được, vì ngủ không nổi cũng vậy, đều là đan cho cậu cả, cậu chỉ ước gì mình có thể đập chết tên lưu manh ngay.

Cậu không đứng lâu, chủ yếu là hỏi về đặc thù vẻ ngoài của tên lưu manh, chiều cao và giọng nói, có mang dụng cụ gì hay không vân vân, tiếc là Khương Thải Vi lúc đó rất sợ, không chú ý được bao nhiêu. Cậu hỏi xong thì rời đi, không hề hé răng về kế hoạch buổi tối.

Bốn người ăn cơm tối xong thì ra ngoài, Đinh Nhĩ Hòa lái xe, Đinh Khả Dũ và Khương Đình Ân chen hai bên Kỷ Thận Ngữ ở ghế sau, không khỏi cười khúc khích. Dù bình thường không hợp rơ nhau, nhưng cũng mới mười tám, mười chín tuổi đầu, nói quên là quên ngay.

Kỷ Thận Ngữ mặc chiếc váy dài Đinh Khả Dũ thuê từ tiệm chụp ảnh cưới, mặc quần đùi trong váy, phía trên là áo sơ mi, còn đội tóc giả nữa. Đinh Khả Dũ khoác vai cậu: "Sư đệ này, ngực cậu phẳng lì thế, lưu manh có để ý không?"

Kỷ Thận Ngữ đội tóc giả túa mồ hôi: "Tối như mực thế, gã có thể nhìn ra em phẳng hay không à?"

Xe đỗ ven đường, sau khi trời đã đen kịt, Kỷ Thận Ngữ đi một mình vào ngõ hẻm, bắt đầu đi lại. Đây là chuyện cần kiên nhẫn, nếu đêm nay tên lưu manh không xuất hiện thì họ còn đêm mai nữa.

Còn mỗi ba người chờ trên xe, thường hay có một người bước xuống nhìn với vào ngõ, thấy không có tiếng động thì về, không thể cách quá gần. Đợi đến mười một giờ, Khương Đình Ân ngáp, dựa vào cửa xe ngủ gật.

Qua thêm nửa tiếng nữa, Đinh Khả Dũ cũng mệt, bụng réo òn ọt. Cả ba chẳng chờ nữa, bèn xuống xe định đi quanh đó ăn khuya, tiện thể mua một suất về cho Kỷ Thận Ngữ.

Nhà chuẩn bị tắt đèn, Đinh Duyên Thọ tắt cả đèn rọi trên tường bình phong, quay người lại thì nghe tiếng cửa mở. Cửa sắt phát ra tiếng to, Đinh Hán Bạch vừa đi công tác về còn phát ra tiếng lớn hơn nữa, vừa qua cửa bèn hét: "Nửa đêm nửa hôm bố đứng đó làm gì! Sợ chết khiếp!"

Đinh Duyên Thọ hỏi: "Sao lần công tác này của mày khác thế, đi du lịch một ngày một đêm ngoài ngoại ô à?"

Đinh Hán Bạch lờ ông bô nhà mình, hắn căn bản là không dằn lòng được, cứ mãi lo Khương Thải Vi có đỡ hay chưa, lại loáng thoáng cảm thấy sẽ xảy ra chuyện gì đó, bèn dứt khoát chạy về nhà. Thế là đến tiền viện thăm Khương Thải Vi, trước khi đối phương ngủ thì hỏi tình huống đêm đó rất nhiều.

Khương Thải Vi khó lắm mới bật cười: "Hôm nay Thận Ngữ cũng hỏi dì mấy câu này, giống y như đúc."

Đinh Hán Bạch hỏi: "Bọn nó biết cả rồi ạ?"

Tiểu viện tối đèn, Đinh Hán Bạch phát hiện Kỷ Thận Ngữ không ở đó, đến viện Đông nhận ra thằng hai thằng ba cũng không ở nhà. Nếu nghe ngóng tình hình thì chắc là muốn tóm tên lưu manh, hắn tức thì bắt xe ra ngõ, cứ cảm thấy mấy thằng nhãi này không đáng tin tí nào.

Kỷ Thận Ngữ đã lảng vảng suốt mấy tiếng liền, chân nhức, dựa vào tường đứng một chốc, mỗi khi có ai đi ngang qua đều xốc tinh thần lên. Lại đi đến cuối ngõ, đi ra ngoài là một con phố khác, quẹo vào là một góc chết, cậu bèn ra cửa ngõ, thấy lạ là sao ba người kia lâu thế mà chưa đến.

Gió thổi bay làn váy, suýt nữa cậu đã rẽ rồi, bèn đứng chỉnh tư thế làm mình trông như con gái, nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, bên chiếc ngõ hẹp chợt có một đôi tay vươn tay ôm lấy cậu, trực tiếp ghìm chặt vai cậu, kéo cậu vào bên trong.

Một bàn tay ươn ướt bịt miệng cậu lại, eo cũng bị ôm lấy, cậu mới giật mình nhận ra thậm chí còn có hai tên lưu manh.

Kỷ Thận Ngữ dốc hết sức giãy dụa, cố gắng đá một cú, nhưng tức khắc bị túm tóc tát một cái đau điếng. Tóc giả bị vứt tán loạn, váy dài bị xé rách mò mẫm, cậu lén lấy dao khắc trong túi quần ra.

"Mẹ! Đây là con trai?!"

Gã lưu manh ghì ngực Kỷ Thận Ngữ buông tay ra, đè lên cổ họng, một kẻ khác thì nóng lòng xác nhận, bèn lủi tay xuống sờ thứ ở giữa hai chân Kỷ Thận Ngữ. Kỷ Thận Ngữ hãi hùng kêu cứu: "Sư ca... Sư ca ơi..."

Sầm – Tiếng cửa xe taxi đóng lại, Đinh Hán Bạch thấy xe nhà mình, nhưng trên xe không có ai. Hắn bèn chạy về phía ngõ, từ xa nghe thấy tiếng ma sát của quần áo lẫn tiếng chửi rủa của hai người đàn ông.

"Con trai con đứa mặc váy lảng vảng làm gì?! Trai giả gái? Tởm bỏ mẹ!"

"Là con trai thật rồi, đệch mẹ thằng biến thái này từ đâu ra vậy!"

Kỷ Thận Ngữ bị đánh, nơi yếu ớt bỗng bị bóp, cậu hoảng hốt giãy dụa, dao khắc dùng sức vung lên rất nhanh.

"— Kỷ Trân Châu!"

Cậu nghe thấy cái gì đó, gần đến vậy, quen thuộc đến thế.

Đinh Hán Bạch nổi gân xanh, lúc này trong ngõ đồng thời có hai tiếng kêu thảm thiết.

*Chú thích: Tạm thời không up được ảnh do lỗi wattpad, tôi sẽ bổ sung sau.

1. Miếng ngọc bài màu xanh:

2. Bát chín quả đào hồng:

3. Bát họa tiết rồng khắc chìm sứ vàng:

Chương 20: Nơi đàn ông đau nhất

Edit: Dú

Chương 20: Nơi đàn ông đau nhất

Kỷ Thận Ngữ ngã khụy xuống đất, đau túa mồ hôi như mưa.

Hai mắt cậu nhanh chóng trở nên mơ hồ, đến cả bóng người vọt vào cũng chẳng thấy rõ, khi tiếng đấm đá vang lên ngay bên người, hai gã lưu manh nọ cầu xin tha thứ và kêu rên mới khiến cậu hiểu ra rằng, rốt cuộc cũng có người đến cứu mình rồi.

"Sư ca..." Cậu cất thứ tiếng quá đỗi mỏng manh.

Đinh Hán Bạch chỉ dí một tên lưu manh để đánh, bởi vì kẻ còn lại đã nằm đo đất rên rỉ lâu rồi. Sau khi nghe thấy tiếng gọi đó của Kỷ Thận Ngữ, hắn không rảnh bận tâm đến chuyện khác nữa, bèn vọt đến bên đối phương, bắt lấy vai đối phương để đỡ dậy.

Kỷ Thận Ngữ đau đến nỗi thét một tiếng, cơ thể lại đổ lệch xuống lần nữa. Đinh Hán Bạch nửa ngồi xổm, nôn nóng hỏi: "Bị thương ở đâu?! Có chảy máu không?!"

Hắn lấy lực nâng cả eo của Kỷ Thận Ngữ khiến cả người được ôm dậy, còn Kỷ Thận Ngữ dù có đứng thẳng cũng cong oặt người, chệnh choạng như sắp ngã thụp xuống.

Đinh Hán Bạch xoay lưng qua: "Leo lên đây, anh cõng cậu."

Kỷ Thận Ngữ đau đến nỗi phải cắn răng: "Không được... Chân..."

Đinh Hán Bạch lập tức sờ chân: "Gãy xương đùi à?" Hắn chạm vào đôi chân đang khép chặt của Kỷ Thận Ngữ, chúng không ngừng run rẩy, và dần trở lên trên, phát hiện Kỷ Thận Ngữ đang ôm siết lấy đùi.

"Mẹ..." Hắn luống cuống, cũng bất chấp hai gã lưu manh nhổm dậy sẽ chạy mất hay không, bèn trực tiếp ôm ngang Kỷ Thận Ngữ lên, ra sức chạy về phía cửa ngõ.

Ba người ăn khuya xong thì cùng nhau về, Khương Đình Ân đã gói một suất cơm canh gà cho Kỷ Thận Ngữ, còn chưa đi đến cửa ngõ thì thấy Đinh Hán Bạch bế một người tóc dài bồng bềnh chạy đến.

Đinh Hán Bạch xoay mặt thì thấy bọn họ: "Thằng hai lái xe! Thằng ba thằng bốn đi bắt hai gã kia!"

Tiếng quát này cộng thêm vẻ mặt đáng sợ của Đinh Hán Bạch làm ai nấy đều sợ điếng người. Đinh Nhĩ Hòa phản ứng xong thì tức khắc đi mở cửa xe, Đinh Khả Dũ và Khương Đình Ân lập tức chạy về phía ngõ.

Đinh Hán Bạch bế Kỷ Thận Ngữ ngồi ghế sau, chỉ hơi động đậy đôi chút là Kỷ Thận Ngữ đã đau đến kêu thành tiếng, vì vậy hắn không dám cựa quậy nữa, đành ôm đối phương trên đùi mình. Kỷ Thận Ngữ run lẩy bẩy không dứt, cuộn mình trong lòng hắn như một con tôm nấu chín, mồ hôi lạnh trên mặt thấm ướt áo sơ mi, sau đó hắn thấy gáy mình nóng bừng, kinh hãi nhận ra Kỷ Thận Ngữ đang cắn răng khóc.

Lúc hóa vàng mã cho Kỷ Phương Hứa không khóc, thế mà giờ đây đã đau thành cái gì rồi.

Đinh Hán Bạch vừa nôn nóng vừa bực bội, chửi Đinh Nhĩ Hòa: "Ai nghĩ ra cái kế hoạch thối nát này vậy?!"

Lòng bàn tay Đinh Nhĩ Hòa túa mồ hôi: "Bọn em cùng bàn với nhau." Cầm lái cũng không vững, trong lúc trả lời thì bị một chiếc xe vượt qua. Đinh Hán Bạch hận không thể đá vào chỗ ghế lái một cú: "Đậu má, cậu còn lái xe được không đó!"

Ngực hắn rung động, cúi đầu mới nhìn rõ Kỷ Thận Ngữ mặc gì, váy bị xé tơi tả, tóc giả cũng rối bù, áo sơ mi bị rơi vài cái cúc... Chuyện này là sao!

Còn chưa xả giận thì Kỷ Thận Ngữ đã dính lấy hắn mà khóc: "Em sẽ không bị phế chứ... Em sợ lắm..."

Đinh Hán Bạch bực khôn cùng: "Cậu sợ? Khi cậu giả làm con gái đi dụ lưu manh sao không thấy sợ? May mà hai gã lưu manh đó không phải loại chẳng kỵ nam nữ, không thì phía sau của cậu cũng đau như phía trước rồi đấy!"

Hắn mắng xong thì giục Đinh Nhĩ Hòa tăng tốc, sau đó lột hết váy rách lẫn tóc giả xuống, cởi áo khoác của mình cho đối phương khoác, nhỏ giọng nói: "Sẽ đến bệnh viện ngay thôi, bác sĩ khám là không đau nữa, lau nước mắt đi."

Kỷ Thận Ngữ không cựa quậy, có lẽ là giọng hắn quá nhỏ. Nhưng bó tay rồi, mắng người còn cao giọng rồi, chứ dỗ thì vẫn thấy xấu hổ mà.

Đinh Hán Bạch chỉ đành đưa tay lau nước mắt cho Kỷ Thận Ngữ, càng lau càng nhiều nước mắt rơi hơn, dường như hắn cũng thương cảm lây cho cái "Nơi đàn ông đau nhất" nọ. Rốt cuộc cũng đến bệnh viện, hắn ôm Kỷ Thận Ngữ vào khám gấp, bác sĩ hỏi nguyên nhân, hiếm khi hắn mới nói lắp.

"Gặp, gặp tên biến thái." Hắn kể, kể xong thì lách ra, sai Đinh Nhĩ Hòa đi rút tiền, phòng ngừa phải phẫu thuật hoặc nằm viện.

Mành bị kéo, chỉ có thể thấy bác sĩ đang đứng bên giường, tiếng kéo khóa rất ngắn, Kỷ Thận Ngữ bị cởi quần ra, ngay sau đó bác sĩ hít sâu một hơi, bảo Kỷ Thận Ngữ đừng nhịn nữa, cứ dốc sức mà khóc.

Đinh Hán Bạch đứng nghe ở góc tường, bèn không khỏi la lên: "Bác sĩ, không... không phế chứ?"

Bác sĩ không đáp, chỉ nghe Kỷ Thận Ngữ khóc càng nức nở hơn. Lòng Đinh Hán Bạch ngổn ngang, phát huy hết tình anh cả lẫn tinh thần chủ nghĩa nhân đạo, lại la to: "Bác sĩ, cậu ấy vẫn chưa mười bảy, anh nhất định phải chữa khỏi đấy, tiền không thành vấn đề."

Tiếng khóc dần dứt, sụt sà sụt sịt, Đinh Hán Bạch nghĩ, tiểu thái giám thời cổ đại tiến cung tịnh thân, chắc cũng là cảnh như này nhỉ. Hắn chưa kịp nghĩ xong thì bác sĩ đã vén mành đi ra, trừng hắn qua lớp kính mắt.

"Bác sĩ, anh nói đi, tôi chấp nhận được mà."

"Không gây tổn thương cho chỗ đó của cậu, cậu thì có gì đâu mà không chấp nhận được."

Đinh Hán Bạch nhận đơn thuốc, cố gắng phân biệt xem nó viết cái gì, thấy phải nằm viện quan sát thêm và uống thuốc, bèn quá đỗi mừng rỡ: "Không có gì trở ngại ạ?!" Bác sĩ nói không tổn thương đến gốc rễ, chẳng qua chỗ đó vốn yếu ớt, nên cực kỳ đau thôi, hơn nữa nom thằng bé này khá là không chịu đau được.

Đinh Hán Bạch vòng ra sau mành, không ngờ Kỷ Thận Ngữ vẫn chưa mặc quần vào, cong chân lại, nơi giữa hai chân bị bóp thành màu đỏ sẫm. Hắn bước đến mặc giúp, không để đối phương phải động đậy mạnh, mặc xong thì đợi y tá xử lý các vết thương khác rồi mới đi.

Đã là hai giờ sáng hơn, ngoài hành lang chẳng có ma nào, Đinh Hán Bạch bế ngang Kỷ Thận Ngữ chầm chậm bước, chẳng răn đe, cũng chẳng an ủi, cứ lặng thinh mà đi.

Kỷ Thận Ngữ đau đến nỗi phát âm không còn rõ chữ: "Anh mệt không?"

Đinh Hán Bạch khắc mười mấy tiếng cũng chẳng cần nghỉ ngơi, mới chỉ ôm người ta bằng hai tay một chốc thôi mà, không thấy mệt gì, nhưng vẫn nói: "Có thể không mệt được à? Đợi hôm nào anh bị bệnh, cậu phải bế anh đấy."

Kỷ Thận Ngữ không đáp, hít hơi nhắm mắt lại, sau đó lại mở ra: "Em không nằm viện đâu." Bẽ mặt lắm, cậu không chịu được.

Đinh Hán Bạch cũng chẳng cố chấp, bèn bế cậu rời đi. Trên đường về nhà, đèn rọi trên chiếc tường bình phong trong nhà lại sáng, như để lại cho bọn họ. Đinh Hán Bạch bế Kỷ Thận Ngữ về tiểu viện, đặt ngay ngắn lên giường, cho uống thuốc giảm đau.

Kỷ Thận Ngữ đổ mồ hôi lạnh ướt đẫm quần áo, cũng chẳng thèm tắm rửa gì nữa, đợi cơn đau giảm bớt mới mơ màng ngủ.

Hiện giờ đang đúng lúc nửa đêm, Đinh Hán Bạch thừa biết cả nhà vẫn chưa ngủ, chẳng qua vì muốn người khác ngủ yên giấc nên không ai ra hỏi. Hắn vòng ra tiền viện, đến phòng khách thì gặp Khương Đình Ân, muốn hỏi tiền căn hậu quả.

Đó giờ Khương Đình Ân toàn chưa đánh đã khai, bèn kể sạch hết chuyện đêm nay.

"Hai gã lưu manh đó đâu? Cậu với thằng ba có bắt được không?"

"Một tên đã chạy trốn được, tên còn lại thì chảy rất nhiều máu, bị Kỷ Thận Ngữ rạch dao khắc từ ngực xuống rốn, một đường liền mạch, vừa sâu vừa dài..."

Đinh Hán Bạch nhớ đến hai tiếng kêu thảm thiết kia, tiếng của gã lưu manh dồn dập và ngắn ngủi, nhưng miệng vết thương dài chừng ấy, thủ đoạn của Kỷ Thận Ngữ cũng thạo tay thật. Hắn hỏi xong thì nhìn Khương Đình Ân, Khương Đình Ân bị hắn nhìn phát sợ, không ngừng cầu xin hắn tha thứ và cam đoan.

"Được rồi, đồ nhát cáy." Hắn nói, "Kỷ Thận Ngữ bị thương, cậu lấy công chuộc tội mà hầu hạ em nó đi, không biết hầu thì giải buồn cũng được."

Khương Đình Ân gật đầu như giã thóc: "Anh cả ơi, vậy anh hai với anh ba thì sao! Họ cũng hầu hạ ạ?"

Đinh Hán Bạch ngó lơ, đi mất. Tắt hết đèn cửa hành lang, đi đến đâu tối om đến đó, đi thẳng đến viện Đông. Đinh Hậu Khang nghe tiếng động bèn khoác quần áo ra, không đuổi người đi, có lẽ là chột dạ thay con mình.

Đinh Hán Bạch nói: "Chú hai, chú về phòng ngủ đi."

Hắn đi thẳng đến cửa phòng ngủ của Đinh Khả Dũ, đá văng cửa, túm đối phương từ ổ chăn ra, quật ngã xuống đất rồi đá mấy cú. Đinh Khả Dũ tru tréo kéo Đinh Nhĩ Hòa đến, cũng vừa khéo Đinh Hán Bạch gộp cả Đinh Nhĩ Hòa xử luôn thể.

Ba anh em đo đất hai, Đinh Hậu Khang đứng trong sân nôn nóng đến nỗi đi đi lại lại, la lên: "Hán Bạch, đây mới là em họ ruột thịt của cháu đó."

Ý ngoài lời là, thằng nhãi họ Kỷ kia chỉ là một người ngoài.

Đinh Hán Bạch chưa thay quần áo, bôn ba lâu đến vậy nên người lấm lem bụi đất, rất hợp rơ với màn đêm tăm tối. Hắn đứng ngay cửa, cổ họng hơi khàn: "Chú hai, sai là sai, chẳng có gì mà ruột rà ở đây hết. Đây là lỗi nhỏ, dạy dỗ tí là qua chuyện, nhưng nếu ngày nào đó mắc lỗi to hơn, cháu sẽ không để yên đâu."

Hắn đi về ngủ, mệt kinh khủng, vừa dính gối cái đã vào giấc luôn.

Một đêm chẳng yên tĩnh, khi trời tờ mờ sáng, Kỷ Thận Ngữ đau tỉnh. Mồ hôi rơi tí tách, tóc mai xõa trước trán đều mướt rượt mồ hôi. Cậu nằm ngửa không dám nhúc nhích, gồng mình đau, mà thả lỏng cũng đau, nơi nguy hiểm nọ như bị hỏng, lây lan sang cả tứ chi trăm hài, đau đến nỗi cả môi lẫn má cậu đều trắng bệch.

Chịu đựng được đến khi trời sáng tỏ, Khương Thải Vi mới đến gõ cửa, hỏi cháu sao rồi.

Kỷ Thận Ngữ nói dối là không sao cả, sợ Khương Thải Vi vào phòng, vậy chi bằng cậu cắt cổ tay tự sát cho rồi. Khương Thải Vi rời đi, Khương Đình Ân đến, bưng thau xách phích định hầu cậu rửa mặt.

Hai người đóng cửa lại, lau hết một lượt thì thay quần áo, Khương Đình Ân rất chi là thành thật: "Em biết không, tối qua anh cả tẩn cho anh hai với anh ba một trận, không đánh anh."

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Sao không đánh anh luôn?"

Khương Đình Ân vội la lên: "Anh là tòng phạm thôi mà! Mà với cả, chẳng phải anh đến hầu em đó ư, em đừng ghét anh nhé."

Thật ra Kỷ Thận Ngữ cảm thấy kế hoạch chẳng có vấn đề gì cả, chỉ là sự cố khi thực hiện mà thôi, nhưng bất trắc này cũng chứng tỏ rằng mọi người không đếm xỉa tới cậu thật. Cậu hiểu rất rõ, rằng một người ngoài nửa đường đến đây thì dựa vào cái gì mà bảo người ta phải quan tâm đến mình đâu?

Cậu mặc một chiếc áo cộc tay, uống thêm thuốc giảm đau: "Anh gội đầu hộ em được không?"

Tuy chất lượng làm việc của Khương Đình Ân thì tệ, song cũng xem như nhẫn nại chịu khổ được, bèn để Kỷ Thận Ngữ gối đầu bên mép giường, còn cậu chàng thì nhấc thau gội đầu cho đối phương. Ga trải giường ướt đẫm một mảng lớn, tắm được nửa phích thì hết nước, cậu chàng tất bật xách phích đi đổ nước nóng vào.

Gặp Khương Sấu Liễu, Khương Sấu Liễu bèn hỏi cậu ta về tình hình của Kỷ Thận Ngữ, cậu ta vừa đáp vừa đi theo vào phòng khách chính. Thấy đồ ăn sáng đã làm xong xuôi, cậu ta lại đặt phích xuống bưng đồ ăn cho Kỷ Thận Ngữ, bưng rồi mới nhớ ra vẫn chưa gội đầu xong.

Kỷ Thận Ngữ nhỏ nước nơi tóc khổ thân chờ đợi, tiếng bước chân dần đến gần, song lại vững vàng chẳng giống Khương Đình Ân.

Đinh Hán Bạch vừa mới dậy: "Cả một bãi nước to thế này, cứ tưởng cậu đau đến nỗi dấm đài đó chứ."

Vừa nói vừa tiến lại gần, cúi người nâng gáy Kỷ Thận Ngữ lên, luồn tay vào gãi đầu tạo bọt, ngồi bên mép giường tạm thay việc của Khương Đình Ân. Kỷ Thận Ngữ rất ngưỡng mộ hắn, bèn hỏi: "Sư ca ơi, đêm qua anh đánh anh hai với anh ba ạ?"

Đinh Hán Bạch "Ừ" một tiếng, lau bọt vương trên mặt cậu: "Để tóm gã lưu manh là đúng, để tiện thể bắt nạt cậu cũng là thật, đánh hai đứa nó không chỉ là để xả giận cho cậu, mà còn là..."

Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Còn là gì?"

Đinh Hán Bạch ngẫm nghĩ: "Chấn chỉnh nếp nhà."

Càng gãi càng nhiều bọt, cuối cùng Khương Đình Ân cũng bưng nước nóng đến, Kỷ Thận Ngữ gội đầu xong thì từ từ ngồi dậy, luống cuống trước tấm ga trải giường ướt đẫm. Đinh Hán Bạch cúi người ôm cậu ra ngoài, để Khương Đình Ân ở lại thay ga giường và lau sàn nhà.

Cả hai đứng ngoài hành lang thì trông thấy một con chim khách đậu trên bàn đá, đương mổ vào đồ ăn sáng.

Đinh Hán Bạch nói: "Anh đây sống hai mươi năm, vẫn chưa từng ôm vợ mình, thế mà chưa gì đã ôm cậu rồi."

Trong ngực chẳng có động tĩnh gì, thì ra Kỷ Thận Ngữ đã dựa vào vai hắn ngủ khì, chắc cả đêm qua không ngủ ngon giấc, sau khi cơn đau ngừng lại mới thấy buồn ngủ hơn. Sau đó hắn thu xếp cho người ta, đến đồn công an lập biên bản với Khương Thải Vi, xử lý hết chuyện về tên lưu manh rồi mới về.

Chim khách đã ăn no rất thích nơi đây, bèn quắp chân trên một nhành cây hót líu lo.

Kéo theo cả chim sẻ lẫn bồ câu xám đến, hợp xướng ngay trên cây.

Hót như vậy cả ngày, đến khi chạng vạng lại có một con góp vui nữa, Đinh Hán Bạch đi ra khỏi phòng cơ khí, nghe tiếng hót của ba con chim mà cứ đau đầu mãi thôi. Đi băng qua đến ngoài cửa sổ phòng phía Bắc, hắn hỏi Kỷ Thận Ngữ đang nằm trên giường: "Có chuyện gì thì cứ kêu đi, hừ hừ gì đó?"

Hai má Kỷ Thận Ngữ đỏ bừng: "Em đau bụng."

Hiệu quả của thuốc giảm đau đã biến mất từ lâu, nơi bị thương lẫn bụng đều đau đớn, bấu, nhéo, cậu căng hai chân cố chịu mãi, đau quá bèn vô thức rên rỉ. Đinh Hán Bạch bước vào, bàn tay to phủ lên bụng cậu rồi xoa, suýt chút nữa cậu đã kêu thành tiếng.

"Hôm nay đã tiểu chưa?" Đinh Hán Bạch hỏi.

Kỷ Thận Ngữ lắc đầu, đừng nói là đi tiểu, đến cả giường mà cậu còn chẳng xuống nổi, hơn nữa chỗ đó cũng sưng tấy hết lên, đi tiểu kiểu gì... Đinh Hán Bạch bế cậu đi vào nhà vệ sinh, rêu rao khắp sân: "Chưa đau chết thì đã nín chết rồi, đêm qua cộng thêm cả ngày hôm nay nữa, cậu không sợ nín quá hóa lũ à."

Mặt Kỷ Thận Ngữ vẫn đỏ, xấu hổ xen lẫn cái đau, Đinh Hán Bạch đặt cậu xuống trước bồn cầu, không đi đâu cả, lùi về sau hai bước đợi cậu giải quyết. Rất đau, thả lỏng bụng để tè ra róc rách, đau đến nỗi cậu đứng không nổi, mắt trắng nhòa, gần như bất tỉnh.

Ban đêm, Đinh Hán Bạch treo một chiếc chuông đồng nơi cửa sổ, kéo dây thừng đến tận gối, Kỷ Thận Ngữ có việc gì thì cứ giật dây là được.

Trước nửa đêm không gió cũng chẳng có việc gì, Đinh Hán Bạch ngủ say tít mít, đến khi hơn bốn giờ thì chuông bỗng kêu, dọa sợ bầy chim tước trên cây. Hắn trở mình, nằm yên một lát mới nhớ ra ý nghĩa của tiếng chuông, bèn để trần người trên chui khỏi ổ chăn, vội chạy đến cách vách trong khi mắt vẫn chưa mở.

Kỷ Thận Ngữ lại nín chừng một đêm, nín đến cực hạn mới được ôm đi giải quyết rồi về, Đinh Hán Bạch đặt cậu xuống giường: "Bố đây chẳng đi nữa, kiểu gì sáng ra cũng phải đi rửa mặt đánh răng, đi ngủ chốc đã..."

Kỷ Thận Ngữ đắp chăn cho đối phương, rất chi là áy náy.

Chung giường chung gối đến hừng đông, Đinh Hán Bạch ngủ không được yên giấc nên tỉnh sớm. Hắn thấy Kỷ Thận Ngữ nhíu mày nhìn trân trân, chắc là đau đến nỗi không ngủ được. "Còn đi tiểu nữa không?" Đối phương lắc đầu, hắn cười, "Dằn vặt chết anh mất thôi, thoa thuốc nhé?"

Kỷ Thận Ngữ lại lắc đầu: "Thoa xong thì phải "phơi" khô, không mặc quần được."

Đinh Hán Bạch thấy khó hiểu: "Thì cứ "phơi" thôi." Vừa dứt lời thì vỡ lẽ ra, trưng vẻ vô cùng ghét bỏ, "Cậu sợ anh thấy á? Chẳng lẽ anh không có ư? Lạ gì cái chỗ đỏ hỏn đó của cậu đâu."

Kỷ Thận Ngữ bị hắn nói thì chỉ ước gì có thể chui xuống đất luôn, bèn xoay mặt đi cẩn thận cởi quần xuống, lúc này Đinh Hán Bạch bèn xuống giường lấy khăn lẫn thuốc mỡ cho cậu. Hết thoa rồi lau dưới chăn, vì xấu hổ quá mà quên đau.

Đinh Hán Bạch lại nằm xuống lần nữa, một cái gối không đủ, bèn ngang ngược kéo sang phía mình, tay chạm đến một thứ gì đó vừa cứng vừa lạnh, lấy ra thì thấy là một chiếc dao khắc cỡ nhỏ. Hắn sửng sốt: "Cất dao dưới gối, cậu phòng bị ai đấy?"

Đối phương còn chưa kịp giải thích thì hắn đã nói tiếp: "Đêm hôm đó cậu thọc tên lưu manh một dao từ ngực xuống rốn, ngay chính giữa luôn."

Kỷ Thận Ngữ thấy buồn cười quá: "Thì em muốn rạch một dao cân xứng cho gã thôi mà..."

Đưa dao khắc ra trước mắt, Đinh Hán Bạch kề sát vào: "Vậy cái này thì sao, cũng muốn rạch một dao cân xứng cho anh luôn à..."

Đinh Hán Bạch để trần tay, Kỷ Thận Ngữ thì để trần người, mỗi người mỗi vẻ dưới tấm chăn. Mắt chạm mắt, tiếng chim hót líu lo ngoài cửa sổ, rõ là chưa được ngon giấc, thế mà chẳng thấy buồn ngủ.

Kỷ Thận Ngữ lấy đá Tiết Gà dưới gối ra, màu đỏ lẫn nhũ trắng giao hòa, khắp bốn góc, trên đỉnh là một bụi hoa hồng trắng pha đỏ đầy sức sống.

Cậu đau không ngủ được, nín cả đêm, khắc cả đêm.

Chưa đánh bóng mà đã đẹp khôn cùng, Đinh Hán Bạch ngẩn ngơ, Kỷ Thận Ngữ hỏi: "Anh thích hoa hồng đỏ hay hoa hồng trắng?"

Đinh Hán Bạch cướp lấy rồi nắm chặt: "Anh thích Đinh Hương cơ."

Kỷ Thận Ngữ không đáp, chỉ là dường như có gì đó đã rơi vào khoảng không.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co