Truyen3h.Co

Dan So Hoc

Chöông 1

NHẬP MÔN DÂN SỐ HỌC

1.1. ĐỊNH NGHĨA DÂN SỐ HỌC

Thuật ngữ Dân số học hay Nhân khẩu học - Demography có nguồn gốc từ tiếng Latin: demos (dân chúng, dân cư) và grapho (mô tả). Thuật ngữ này được nhà khoa học Pháp A. Guillard đưa ra năm 1855 trong một quyển sách có nhan đề: "Các thành phần thống kê của con người hay Dân số học so sánh". Sau đó, thuật ngữ này được thừa nhận chính thức trong Hội nghị quốc tế về Vệ sinh học và Dân số học tại Genève năm 1882 và được sử dụng rộng rãi vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Theo các nhà khoa học của tám nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia, Thụy Điển, Brazil, Ấn Độ trong quyển Nghiên cứu dân số, 1953: "Dân số học là khoa học nghiên cứu số lượng, phân bố và cơ cấu dân số cũng như biến động tự nhiên, biến động cơ học, biến động xã hội của nó".

Liên hiệp Quốc, 1958, xác định: "Dân số học là khoa học nghiên cứu về dân số, về cơ bản có liên quan đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của dân số".

Theo tự điển Dân số học đa ngữ của Vande Walle, 1982: "Dân số học là nghiên cứu khoa học về dân số nhân loại, trước hết là quy mô, cấu trúc và sự phát triển của nó".

Trong giáo trình xuất bản 1985 của một số trường đại học thuộc Liên Xô cũ định nghĩa: "Dân số học là khoa học nghiên cứu số lượng, phân bố theo lãnh thổ và cơ cấu của dân số với những biến động của chúng, giải thích nguyên nhân và hậu quả của những biến động đó. Mối quan hệ lẫn nhau giữa yếu tố kinh tế xã hội với những biến động trong dân cư".

Theo tự điển Dân số học (The Dictionary of Demography) do Pressat chủ biên, 1985, thì "Dân số học là khoa học nghiên cứu về dân số loài người trong mối tương quan với những biến đổi do tác động tương hỗ của các yếu tố sinh, chết và di dân".

Theo giáo trình Dân số học và Địa lý dân cư của Nguyễn Minh Tuệ, 1992: "Dân số học là khoa học nghiên cứu những quy luật của tái sản xuất dân số trong những điều kiện xã hội và lịch sử cụ thể, trên một lãnh thổ nhất định".

Tuy có nhiều định nghĩa về Dân số học của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau đưa ra, nhưng chung quy lại, các định nghĩa đều có một số điểm chung nhất định: Dân số học là môn khoa học xã hội độc lập, nghiên cứu tính quy luật của tái sản xuất dân cư thông qua các chỉ báo cơ bản như sinh, tử, chuyển cư, hôn nhân... và các điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến nó.

Nói cách khác, Dân số học là khoa học về dân số, có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật tái sản xuất dân cư trong những điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội cụ thể trên một lãnh thổ nhất định.

Như một ngành khoa học xã hội độc lập, Dân số học tìm hiểu tính quy luật và những điều kiện xã hội liên quan đến các quá trình sinh, tử, hôn nhân, chấm dứt hôn nhân, tái sản xuất dân cư trong mối quan hệ thống nhất biện chứng của các quá trình này.

Dân số học không những xem xét sự thay đổi kết cấu dân số theo lứa tuổi và giới tính, theo tình trạng hôn nhân và gia đình, mối quan hệ qua lại giữa các quá trình với kết cấu dân số, mà còn đề cập đến tính quy luật thay đổi số dân và gia đình như là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa các hiện tượng nói trên.

1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1.2.1. Đối tượng nghiên cứu

Theo quan điểm duy vật biện chứng, xã hội loài người tồn tại và phát triển không ngừng nhờ quá trình tái sản xuất xã hội. Quá trình này gồm hai bộ phận: tái sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất nuôi sống loài người và tái sản xuất dân cư để duy trì và phát triển nhân loại.

Đối tượng nghiên cứu của Dân số học chính là quá trình tái sản xuất dân cư. Đó là quá trình thay đổi liên tục các thế hệ con người, trong đó, thế hệ trẻ thay thế thế hệ già thông qua hai quá trình bộ phận là sinh sản và tử vong trong những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.

1.2.2. Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu dân số bao gồm việc trình bày tình hình dân số, phân tích các xu hướng và nhân tố ảnh hưởng tới các quá trình dân số theo lãnh thổ (không gian) hay theo nhóm dân cư ở các thời kỳ khác nhau. Từ việc nghiên cứu các đặc điểm sinh, tử ở các thế hệ, các nhóm xã hội và các lãnh thổ khác nhau, Dân số học đánh giá một cách khách quan, chính xác sự thay đổi của chúng trong tương lai dựa vào những dự báo dân số. Trên thực tế, có ba lĩnh vực nghiên cứu chính:

• Quy mô và cơ cấu dân số

Đối với khoa học dân số thì vấn đề đầu tiên khi nghiên cứu một dân cư nào đó là quy mô của nó, tức là tổng số dân, thường được thống kê theo những phạm vi hành chính lãnh thổ nhất định. Tuy mỗi thành viên dân cư của một vùng đều có điểm chung là cùng sống trên một lãnh thổ nhưng họ cũng có nhiều điểm khác nhau do đó dân số còn được nghiên cứu về mặt cơ cấu. Việc tìm hiểu quy mô và cơ cấu dân số nhằm cung cấp những đặc điểm về tình trạng của dân số tại một thời điểm nhất định.

• Các quá trình ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu dân số

Dân số không chỉ được nghiên cứu ở trạng thái tĩnh tại một thời điểm, mà còn được nghiên cứu ở trạng thái động. Sự đổi mới không ngừng của dân cư một vùng là kết quả tổng hợp của các sự kiện sinh, chết, di dân và các yếu tố xã hội tạo nên quá trình biến động dân số. Biến động dân số hay phát triển dân số là nội dung quan trọng của Dân số học được nghiên cứu theo ba khía cạnh: biến động tự nhiên, biến động cơ học và biến động xã hội của dân số.

Biến động dân số diễn ra liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Dân số hiện tại là kết quả của sự gia tăng dân số trong quá khứ, dân số tương lai là kết quả của khuynh hướng gia tăng trong hiện tại. Vì vậy, dự báo dân số, lao động và các thành phần khác cũng là một nội dung nghiên cứu của Dân số học.

• Mối liên hệ giữa các yếu tố của cơ cấu và biến động dân số với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử.

Nghiên cứu các nhân tố tác động tới từng quá trình dân số, qua đó, tìm ra tính quy luật của sự vận động của mỗi quá trình dân số, cũng như tái sản xuất dân cư trong những điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể; đồng thời, nghiên cứu sự ảnh hưởng của việc gia tăng dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên môi trường và chất lượng cuộc sống.

Tóm lại, Dân số học nghiên cứu động thái tái sản xuất dân cư nói chung và các thành phần của nó nói riêng, nghiên cứu các quá trình dân số và sự thay đổi kết cấu dân số theo độ tuổi và giới tính, theo hôn nhân và gia đình, nghiên cứu sự phụ thuộc của chúng vào các hiện tượng kinh tế và sự tác động qua lại giữa việc phát triển dân số và phát triển xã hội.

1.3. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.3.1. Mối quan hệ giữa Dân số học với các khoa học khác

Là một môn khoa học xã hội mang tính liên ngành mạnh mẽ, Dân số học có quan hệ mật thiết với nhiều khoa học khác.

• Địa lý dân cư

Dân số học liên hệ mật thiết với Địa lý dân cư (một bộ phận của địa lý kinh tế - xã hội). Địa lý dân cư chuyên nghiên cứu tính quy luật và các nhân tố ảnh hưởng tới việc hình thành, phát triển dân cư và các loại hình quần cư. Dân số học nghiên cứu các quá trình dân số, các đặc trưng của dân số trong phạm vi lãnh thổ và hệ thống quần cư cụ thể. Các loại hình quần cư khác nhau, việc chuyển cư có ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất dân cư.

• Toán học

Toán học cho phép đo lường các sự kiện và các quá trình dân số hoặc lượng hóa các mối quan hệ tác động giữa các quá trình dân số, dự báo dân số. Công cụ toán học, toán thống kê và tin học ngày càng hỗ trợ đắc lực cho Dân số học.

• Kinh tế học

Kinh tế học xem xét dân cư như một thị trường tiêu thụ và nguồn lao động.

• Lịch sử học

Các kiểu tái sản xuất dân cư khác nhau trong lịch sử và đương đại gắn liền với các điều kiện kinh tế xã hội tạo nên nó. Thông qua nghiên cứu Dân số học có thể khái quát quá trình phát triển của một đất nước qua từng thời kỳ. Do vậy, Dân số học có mối quan hệ với Lịch sử học.

• Tâm lý học và Xã hội học

Quá trình tái sản xuất dân cư chịu ảnh hưởng sâu sắc của các chuẩn mực giá trị, hệ thống thang giá trị và các thiết chế xã hội đương đại. Do vậy, Dân số học có quan hệ chặt chẽ với Tâm lý học, Xã hội học nhất là Xã hội học dân số.

• Sinh học và Y học

Các quá trình dân số như sinh sản, tử vong, hôn nhân gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể con người. Do vậy, Dân số học quan hệ chặt chẽ với Sinh học, Y học và Lão học.

Ngoài ra, Dân số học còn liên quan đến một số khoa học khác như Dân tộc học, Nhân chủng học...

1.3.2. Quan điểm nghiên cứu

• Nghiên cứu tái sản xuất dân cư theo nghĩa hẹp

Chỉ nghiên cứu tính quy luật của các quá trình sinh, tử, hôn nhân, chuyển cư; nghiên cứu sự biến động về cơ cấu tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân. Đây là quan điểm nghiên cứu Dân số học thuần túy, không nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa quá trình dân số với các điều kiện kinh tế - xã hội. Đại diện cho khuynh hướng này là các nhà Dân số học Mỹ, Đức.

• Nghiên cứu tái sản xuất dân cư theo nghĩa rộng

Nghiên cứu tổng hợp cả biến động tự nhiên, biến động cơ học và biến động về mặt xã hội của dân số trong những điều kiện kinh tế - xã hội lịch sử cụ thể. Đại diện cho khuynh hướng này là các nhà Dân số học thuộc Liên Xô trước đây.

Ngày nay, Dân số học nghiên cứu tái sản xuất dân cư như một quá trình tương đối độc lập, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội. Bởi vì bản thân quá trình tái sản xuất dân cư mang cả khía cạnh tự nhiên và khía cạnh xã hội.

Khía cạnh tự nhiên của tái sản xuất dân cư biểu hiện ở chỗ: khả năng thụ thai, mức sinh bị hạn chế theo lứa tuổi và phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe. Cuộc đời mỗi cá nhân là có giới hạn và sinh tử trở thành quy luật.

Khía cạnh xã hội của tái sản xuất dân cư biểu hiện ở chỗ: xã hội điều chỉnh tương quan giữa các giới thông qua hệ thống hôn nhân và gia đình. Mức sinh bị chi phối bởi các điều kiện sống, lao động, lối sống và nhu cầu xã hội được điều chỉnh bằng các chuẩn mực văn hóa xã hội. Tình hình tử vong, bệnh tật cũng phụ thuộc vào điều kiện sống, khả năng của xã hội chống lại những tác động bất lợi của môi trường.

Mức sinh, tử, hành vi dân số của các nhóm xã hội khác nhau là khác nhau do điều kiện sống và lối sống. Do vậy, tái sản xuất dân cư có liên hệ mật thiết với những thay đổi về các quan hệ xã hội, văn hóa, cơ cấu kinh tế - xã hội của từng xã hội. Xã hội phát triển, điều kiện sống, các mối quan hệ xã hội, các tiêu chuẩn văn hóa xã hội thay đổi, vì thế, có tác giả cho rằng, quá trình tái sản xuất dân cư là quá trình xã hội thực sự, mang tính lịch sử và khi nghiên cứu nó phải gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể.

1.3.3. Phương pháp nghiên cứu

Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng trong nghiên cứu Dân số học, bao gồm các phương pháp nghiên cứu chung của nhiều bộ môn khoa học và các phương pháp đặc trưng riêng của chuyên ngành.

• Phương pháp thống kê và toán học

Các sự kiện dân số xảy ra trong cộng đồng dân cư mang tính ngẫu nhiên. Dân số một lãnh thổ thường có quy mô lớn. Chỉ khi nghiên cứu với số lượng đủ lớn và thời gian đủ dài thì các đặc trưng định tính hay định lượng, tính quy luật của các quá trình dân số mới được bộc lộ. Điều này đòi hỏi phải sử dụng phương pháp thống kê, từ việc thu thập số liệu, xử lý và trình bày các số liệu dân số.

Mặt khác, các quá trình dân số có mối quan hệ với nhau và với cấu trúc và quy mô dân số. Chúng thường là hàm số của thời gian. Phương pháp toán học được dùng để đo lường cường độ và mô hình hóa các quá trình dân số. Ví dụ như tính xác suất để xảy ra các sự kiện nhân khẩu sinh, chết; biểu diễn các quá trình tăng trưởng dân số hoặc biểu diễn mối liên hệ giữa các quá trình dân số bằng các hàm số.

• Phương pháp phân tích, tổng hợp

Thống kê dân số cung cấp hàng loạt số liệu dân số về mọi mặt. Những số liệu thông tin ban đầu này, được phân tích, tổng hợp để tìm ra những tính chất, các đặc trưng số lượng và chất lượng, lượng hóa các mối quan hệ giữa các quá trình dân số và các bộ phận khác của dân số...

Trong phương pháp phân tích, Dân số học thường áp dụng các phương pháp phân tích theo đoàn hệ (phân tích chéo - cohort analysis) và phân tích theo thời khoảng (phân giải ngang - period analysis).

Phân tích theo đoàn hệ: liên quan đến các sự kiện nhân khẩu xảy ra trong một thời gian của một đoàn hệ nào đó. Thường là việc quan sát một đoàn hệ về một quá trình dân số, qua nhiều cuộc tổng điều tra dân số hoặc điều tra mẫu. Qua đó, tính toán, định lượng một số đặc trưng cần nghiên cứu của đoàn hệ để thấy được khuynh hướng biến đổi của các đặc trưng này.

Phân tích theo thời khoảng: là quan sát một hay nhiều quá trình dân số của nhiều đoàn hệ xảy ra trong cùng một thời điểm hay một thời khoảng ngắn (thường là một năm), ví dụ nghiên cứu sự kiện tử vong trong một năm của một dân số. Một dân số là tập hợp của nhiều đoàn hệ. Do vậy, phân tích theo thời khoảng là lát cắt ngang cho ta bức tranh toàn cảnh của một dân số (thường là ở thời điểm tổng điều tra dân số).

• Phương pháp bản đồ

Nghiên cứu Dân số học được tiến hành trong những đơn vị hành chính nhất định. Dùng phương pháp bản đồ nhằm thể hiện sự phân bố các chỉ số số lượng của các quá trình dân số, kết cấu và quy mô dân số trên các phạm vi lãnh thổ khác nhau. Qua đó, có thể thấy được sự tương đồng hay khác biệt giữa các vùng, các nhóm nước. Từ đó, có thể khái quát hóa, rút ra tính quy luật hoặc các đặc trưng định tính.

Ưu điểm của phương pháp bản đồ là có tính trực quan cao, giúp người nghiên cứu có tầm nhìn khái quát ở những quy mô lãnh thổ khác nhau, dễ dàng so sánh, phân tích và tổng hợp rút ra tính quy luật, nhất là khi nghiên cứu chuyển cư và phân bố dân cư ở những lãnh thổ lớn.

• Phương pháp chuyển tuổi, thế hệ hiện thực, thế hệ giả định, lưới dân số

Là những phương pháp đặc thù để nghiên cứu các quá trình dân số, dự báo thành phần dân số.

• Các phương pháp nghiên cứu của Xã hội học

Các phương pháp nghiên cứu của Xã hội học được sử dụng để nghiên cứu hôn nhân, gia đình và các chỉ số xã hội khác hoặc để tìm hiểu sâu nguyên nhân của các quá trình dân số.

Hiện nay, với sự đa dạng của các phương pháp nghiên cứu và sự phát triển không ngừng của máy tính diện tử có khả năng xử lý nhanh và nhiều số liệu làm cho các phương pháp nghiên cứu dân số ngày càng phong phú và hiện đại.

1.4. CÁC NGUỒN SỐ LIỆU ĐỂ NGHIÊN CỨU DÂN SỐ

Số liệu dân số bao gồm lượng thông tin đa dạng về sinh, tử, chuyển cư, tuổi tác, giới tính, tình trạng hôn nhân, quốc tịch, tôn giáo, ngôn ngữ, tình hình học vấn... của dân cư tại một thời điểm trên một lãnh thổ nhất định.

Số liệu thống kê dân số là cơ sở ban đầu không thể thiếu để phân tích, tổng hợp, và đánh giá một cách khoa học các đặc trưng số lượng, chất lượng, thành phần, sự phân bố và mức gia tăng của một dân số.

Số liệu dân số là cơ sở ban đầu cho việc hoạch định các hệ thống chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; là căn cứ để đánh giá tiềm năng và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia; ngoài ra, nó còn giúp cho các nhà kinh tế trong việc định hướng phân bố sản xuất theo lãnh thổ và tìm hiểu thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Có nhiều nguồn thu thập số liệu về dân số, trong đó có các nguồn chính là: tổng điều tra dân số (census), điều tra chọn mẫu (sample survey), tài liệu theo dõi đăng ký hộ tịch, hộ khẩu.

1.4.1. Tổng điều tra dân số

Là quá trình thu thập, xử lý, phân tích, đánh giá và xuất bản các số liệu về Dân số học, các số liệu về kinh tế - xã hội chủ yếu có liên quan của toàn bộ dân số một nước hay một địa phương tại một thời điểm xác định.

Tổng điều tra dân số hiện đại được tiến hành theo các nguyên tắc sau:

- Phải quy định chu kỳ điều tra với những khoảng thời gian cách đều nhau, thường là 5 năm, 10 năm hay 20 năm tùy từng quốc gia, nhằm giúp cho việc so sánh số liệu theo thời gian dễ dàng hơn.

- Chọn thời điểm điều tra thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ và tiến hành kê khai cho toàn bộ dân số của cả quốc gia, trong đó phải liệt kê từng người với từng đặc điểm xác định của họ.

- Việc lựa chọn chỉ tiêu cho mỗi cuộc điều tra cần phải dựa vào nội dung đã thu thập được trong các cuộc điều tra trước và đưa vào những thay đổi để đáp ứng cho yêu cầu mới, tuy nhiên phải cân đối giữa nhu cầu số liệu và nguồn lực dành cho cuộc tổng điều tra.

- Các nội dung chủ yếu cần có trong tổng điều tra dân số: đặc điểm về địa lý và di dân (địa điểm có mặt tại thời điểm tổng điều tra dân số, địa điểm thường trú, nơi sinh, thời gian cư trú, nơi cưu trú trước đây); đặc điểm về hộ gia đình (quan hệ với chủ hộ hoặc các thành viên khác trong hộ); đặc điểm nhân khẩu học (tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, ngôn ngữ); đặc điểm về giáo dục (trình độ văn hóa, tình trạng biết đọc biết viết, số năm đi học); tình hình sinh sản (số con đã sinh, số con còn sống); đặc điểm về kinh tế (nghề nghiệp, tình trạng việc làm). Những chủ đề này là những khuyến nghị từ năm 1980 của Phòng Thống kê Liên Hiệp Quốc.

- Khi lựa chọn nội dung điều tra cũng cần tính đến khả năng đáp ứng của người dân đối với các câu hỏi phức tạp hoặc không phù hợp với phong tục tập quán của mỗi dân tộc.

- Thông thường, các cuộc tổng điều tra dân số là do Nhà nước chỉ đạo thực hiện, bởi vì nó cần một khoản kinh phí rất lớn, sử dụng lực lượng đông đảo cán bộ điều tra và cần có bộ máy quyền lực.

Nhìn chung, lượng thông tin thu thập được trong các cuộc tổng điểu tra dân số rất phong phú, tuy nhiên, kết quả thường không tránh khỏi sai sót. Những sai sót có thể gặp như kê khai thiếu, kê khai hai lần, khai thác hoặc trả lời không đúng nội dung yêu cầu. Sau các cuộc tổng điều tra, thường tiến hành kiểm chứng và điều chỉnh những thiếu sót sau đó mới công bố số liệu.

1.4.2. Điều tra chọn mẫu

Điều tra chọn mẫu là phương pháp chọn ngẫu nhiên một dàn mẫu thích hợp trong một tổng thể dân số cần điều tra (cỡ mẫu thường chọn là 3% hoặc 5% so với tổng thể). Trên cơ sở mục đích, yêu cầu của việc nghiên cứu mà đặt ra những bảng câu hỏi phù hợp. Từ những thông tin thu thập được của mẫu, dùng kỹ thuật toán học để tính toán, xử lý và sau đó suy rộng cho toàn thể dân số.

Điều tra chọn mẫu được sử dụng rộng rãi trong các cuộc thăm dò ý kiến nhân dân về một vấn đề nào đó. Cơ quan phụ trách có thể là Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội. Điều tra chọn mẫu là một kỹ thuật ngày càng phổ biến, ngay cả ở những nước có thống kê đầy đủ.

Điều tra chọn mẫu, nếu thực hiện tốt (thiết kế và lựa chọn dàn mẫu tốt, tuân thủ chặt chẽ các nguyên lý thống kê) có thể cho các thông tin chi tiết và chính xác ở mức độ nhất định, ít tốn kém và phục vụ nhanh chóng, kịp thời cho một mục đích nào đó.

Điều tra nhân khẩu chọn mẫu được thực hiện nhằm kiểm tra mức độ chính xác của số liệu tổng điều tra dân số và số liệu đăng ký thường xuyên, hoặc để thu thập các số liệu thống kê khi số liệu đăng ký thường xuyên không chính xác. Mặt khác, tổng điều tra dân số chủ yếu chỉ cung cấp thông tin tại một thời điểm nhất định, trong khi điều tra nhân khẩu chọn mẫu cho phép đặt các câu hỏi về những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ vì có nhiều thời gian và nỗ lực hơn trong các cuộc phỏng vấn.

1.4.3. Tài liệu hộ tịch, hộ khẩu

- Tài liệu thống kê hộ tịch:

ghi chép thường xuyên và liên tục những sự kiện nhân khẩu như sinh, tử, thai chết, kết hôn, li hôn.

- Tài liệu theo dõi đăng ký hộ khẩu: thu thập những thông tin về xuất cư, nhập cư, tạm trú, tạm vắng trong dân cư.

Vì nhằm mục đích quản lý hành chính nên nội dung theo dõi cũng đơn giản, thường gồm một số nội dung sau: ngày tháng diễn ra sự kiện và những đặc điểm của đối tượng như tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nơi cư trú và các sự kiện được quan tâm.

Cơ quan hành chính cấp địa phương có trách nhiệm ghi chép, bảo quản và báo cáo lên cơ quan cấp trên những sự kiện này theo định kỳ. Cơ quan thống kê sẽ khai thác và công bố dần.

Về nguyên tắc, tài liệu hộ tịch, hộ khẩu ghi nhận thường xuyên và liên tục các biến cố nhân khẩu ngay khi chúng xảy ra nên sẽ có tính chính xác hơn so với tổng điều tra và điều tra chọn mẫu (phải dựa vào trí nhớ của người được điều tra để thu góp các dữ kiện về các biến cố đã xảy ra trong quá khứ, do vậy không tránh khỏi thiếu sót).

Trên thực tế, có nhiều yếu tố làm cho dữ kiện mất phần chính xác và nghèo nàn về mặt thông tin, nhất là ở những nước đang phát triển. Tại các nước này, hệ thống quản lý hành chính còn nhiều lạc hậu, trình độ của cán bộ cấp cơ sở chưa cao, việc ghi chép các sự kiện nhân khẩu không đầy đủ và thống nhất nên hệ thống tài liệu hộ tịch, hộ khẩu không đủ mức độ chính xác để nghiên cứu những biến động dân số trên quy mô cả nước.

1.5. Ý NGHĨA CỦA MÔN HỌC

• Phục vụ cho công tác lập các kế hoạch, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Khi nghiên cứu dân số của một lãnh thổ, các chuyên gia thường đặt ra các câu hỏi cơ bản như: số dân của vùng này là bao nhiêu, thành phần giới tính và cấu trúc tuổi tác như thế nào, đặc điểm cư trú ra sao, quy mô dân số là ổn định hay có biến động, cơ cấu dân số là cân đối hợp lý hay mất cân đối, các nguyên nhân ảnh hưởng... Từ những thông tin này sẽ cho biết được hiện trạng và dự báo viễn cảnh phát triển dân số trong tương lai. Trên cơ sở đó, các chuyên gia sẽ hoạch định các chính sách dân số quốc gia hợp lý và quản lý hiệu quả sự phát triển dân số của đất nước và từng khu vực.

Mặt khác, con người vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng của xã hội, do đó, các kết quả nghiên cứu của Dân số học về mặt quy mô, cơ cấu sẽ là cơ sở xác đáng cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hay địa phương.

• Giúp tìm hiểu, phát hiện và dự báo các vấn đề kinh tế - xã hội

Quy mô, cơ cấu và sự biến động dân số thường phản ảnh các điều kiện kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu Dân số học còn cho phép tìm hiểu, phát hiện và dự báo các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Ví dụ, sự mất cân đối về giới tính ở một lứa tuổi nào đó có thể là do chiến tranh, do di cư hoặc do điều kiện sống; sự bùng nổ trẻ em trong giai đoạn hiện nay cho phép dự báo sự bùng nổ nhu cầu việc làm trong thời gian 15-20 năm sau...

1.6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

• Dân số

Dân số (population): số người hiện diện vào một thời điểm nào đó của một địa phương, một quốc gia hay của một tầng lớp xã hội mà ta muốn nghiên cứu. Ví dụ: dân số Việt Nam vào 0 giờ ngày 01-04-1999 là 76.324.753 người, dân số thành phố Hồ Chí Minh vào 0 giờ ngày 01-04-1999 là 5.037.155 người.

• Đoàn hệ

Đoàn hệ (cohort): tập hợp những nhóm người cùng trải qua một sự kiện nhân khẩu trong một khoảng thời gian như nhau (thường là một năm). Ví dụ: đoàn hệ đồng sinh gồm những người sinh cùng một năm (hay còn gọi là thế hệ đồng sinh), đoàn hệ đồng hôn gồm những người kết hôn cùng một năm.

• Sự kiện nhân khẩu

Sự kiện nhân khẩu (hay biến cố nhân khẩu) bao gồm: sinh sản, tử vong, hôn nhân (kết hôn và tái hôn), chấm dứt hôn nhân, di dân (nhập cư và xuất cư).

• Cách tính tuổi trong dân số học

+ Tuổi theo năm niên lịch

Được tính căn cứ vào năm sinh và năm tính toán. Ví dụ, một người được sinh vào năm 1980, đến năm 2000 tuổi theo năm niên lịch tính được là 20 tuổi.

+ Tuổi đúng đến ngày-tháng-năm

Được tính căn cứ vào ngày-tháng-năm sinh và ngày-tháng-năm tính toán. Ví dụ, một người có ngày-tháng-năm sinh là: 08-03-1980, đến ngày 07-03-2000, tuổi đúng tính được là 19 tuổi 11 tháng 29 ngày; đến ngày 08-03-2000, tuổi đúng tính được là 20 tuổi.

+ Tuổi trọn năm

Được tính căn cứ vào ngày-tháng-năm sinh và ngày-tháng-năm tính toán nhưng chỉ lấy số năm đã sống trọn. Ví dụ, ngày-tháng-năm sinh: 08-03-1980, ngày-tháng-năm tính toán: 07-03-2000, tuổi trọn năm tính được là 19 tuổi; hoặc ngày-tháng-năm tính toán: 08-03-2000 hay 07-03-2001, tuổi trọn năm tính được đều là 20 tuổi.

0 1 2 3 4 5 ---> tuổi đúng

     

0 1 2 3 4 ---> tuổi trọn năm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co