Truyen3h.Co

Dao Mo But Ky Quyen 8

Quán trà này, tôi vừa bước vào chỉ cảm thấy xa lạ, đến khi lên lầu, tôi mắt bắt đầu thấy có chút ấn tượng mang máng, hình như ngày trước tôi đã tới đây vài lần, hơn nữa, đều là đến cũng những thủ hạ này của chú Ba. Chẳng qua lúc đó tôi còn quá nhỏ, chỉ nhớ trong phòng thường nồng nặc mùi thuốc lá, người lớn ngồi trong phòng đánh mạt chược, cười hô hố, còn tôi thì được bố đưa đến, nhận tiền lì xì từ mấy người rồi đi luôn.

Có đánh chết tôi cũng không thể ngờ, cùng một địa điểm, cùng một nhóm người, mà bây giờ, tôi lại phải trải qua trong cái bộ dạng này.

Trên tầng hai quán trà là một đoạn hành lang, hai bên đều có các gian phòng, nhưng không giống với khách sạn Tân Nguyệt mà chúng tôi làm náo loạn ngày trước, bên trong quán trà này trang hoàng kém hơn nhiều, có nhiều gian là dùng vách tường đan bằng tre, quét sơn nhiều lần, lộ ra một màu dầu trúc, vàng khô hơi ngả trắng. Đến gần là có thể ngửi thấy mùi thuốc lá ám vào rèm che, cũng không biết đã bao nhiêu năm rồi chưa thay tấm rèm này, mùi thuốc lá lâu năm bám vào, giặt không hết.

Phan Tử đi đầu, dẫn chúng tôi đến một gian phòng ở cuối hành lang. Vén tấm rèm che lên, nhóm người chúng tôi lục tục tiến vào. Không gian bên trong rất rộng, nhưng lại chỉ đặt có đúng một cái bàn gỗ lim rất ngay ngắn ở ngay chính giữa phòng, hai bên bày sáu cái ghế dựa bọc vải lụa in hoa tiết rồng ổ, phía sau là cửa sổ, có thể nhìn thấy khung cảnh ở dưới lầu. Tôi liếc mắt một cái, đợi lát nữa nếu có bị đuổi giết, tôi cứ nhảy quách ra khỏi cửa sổ này mà chạy.

Trên bàn gỗ lim bày một bộ đồ trà. Tiểu Hoa tiến đến gạt hết năm cái ghế ra, chỉ chừa một cái cho tôi ngồi xuống, các ghế đều được kéo lại sát tường. Phan Tử liền ngồi xuống, bắt đầu châm thuốc hút. Tôi thấy tay anh đang run rẩy, trong lòng liền căng thẳng, không biết anh ấy còn chịu được nữa hay không. Tôi không dám hỏi, chỉ có thể sờ lên mặt bàn, giả bộ như đang hoài niệm và suy tư điều gì.

Tú Tú bên cạnh bắt đầu pha trà cho tôi, phương pháp pha của cô nàng rất đặc biệt, đầu tiên là tháo búi tóc của mình ra, dội nước trà rửa sạch cây trâm cài đầu, sau đó dùng cây trâm khuấy lá trà.

Tôi nhìn động tác của cô nàng, vừa thầm cầu mong sáng sớm nay cô nàng đã gội đầu rồi. Tôi phát hiện chất liệu của cây trâm cài tóc này rất kỳ lạ, giống như là một loại phỉ thúy nhạt màu, lại vừa trông giống một loại xương cốt, bên trên khắc nhiều hoa văn tinh xảo, nhất định là thứ có lai lịch hẳn hoi rồi.

Trà pha xong, tôi ngửi mùi, cảm giác có lẽ là Bích Loa Xuân, nhưng đồng thời lại có lẫn một mùi hương rất quen thuộc mà tôi không tài nào nhớ nổi. Tôi nhấp một ngụm trà, mùi vị rất ngon, có cảm giác tập trung tinh thần.

Tôi bị cảnh tượng vừa rồi trước cửa quán trà dọa cho sững cả người, tất cả quá trình vừa rồi tôi đều ở trong trạng thái ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Mặc dù nhịp tim không nhanh, cơ thể cũng không phải là quá căng thẳng, nhưng mọi cảm giác của tôi đều trì trệ hẳn đi, tê dại, mãi cho đến khi nhấp một ngụm trà này, mới dần dần thu hồi lại được mọi cảm giác hoảng hốt ngơ ngẩn vừa rồi. Suy nghĩ của tôi bắt đầu rõ ràng hơn, nhưng tâm trạng lại bắt đầu căng thẳng.

Khi chúng tôi tiến vào, cùng lúc đó, nhóm người đông nghịt kia cũng đi vào. Bây giờ bọn họ không ở ngoài tấm rèm che kia, hiển nhiên là đều đi vào các gian phòng khác cả rồi. Tôi không nghe được bất cứ một tiếng xì xầm nói chuyện nào, tất cả mọi người dường như đang chờ đợi điều gì đó.

Có lẽ là nhận thấy vẻ mặt tôi không ổn lắm, Tiểu Hoa khoát tay để tôi bớt hoảng, rồi cậu ta hạ giọng thì thầm gì đó với mấy tên thủ hạ. Đến phần quan trọng nhất, cơ bản cậu ta chỉ có xua tay ra hiệu, ngay cả miệng cũng không mấp máy gì nữa.

Tôi đành phải kiên nhẫn chờ đợi, hít thở thật sâu, ổn định lại tâm trạng của mình. Tú Tú đặt tay lên đồng hồ đeo tay của tôi an ủi, nhưng trong lòng tôi lại càng lo âu hơn. Nếu ngay cả Tú Tú cũng nhìn ra tôi đang luống cuống, vậy thì những người khác chắc chắn cũng có thể nhìn ra, chỉ là tôi vẫn không kiểm soát được nỗi lo âu của mình.

Vất vả lắm Tiểu Hoa mới nói chuyện xong với thủ hạ. Bây giờ cậu ta mới bắt đầu để ý đến tôi. Cậu ta buông rèm xuống, vòng ra sau lưng tôi, kéo rèm cửa sổ xuống. Cả căn phòng tối sầm lại. Cậu ta cúi xuống, nói bên tai tôi: “Vương Bát Khâu không tới, xem ra đã biết là có biến rồi, mới chọn cách lấy lui làm tiến. Có điều, ngoài kia chắc chắn vẫn có tai mắt của lão, có gì không ổn, lão sẽ dẫn người tới ngay. Người bên ngoài thấy Vương Bát Khâu dám không tới, cũng rục rịch rồi, tình huống này bất lợi với chúng ta, xem ra, phải chuẩn bị ra đòn độc mà thôi.”

“Vậy…” Tôi vừa định hỏi cậu ta, cậu ta lập tức đưa tay ra hiệu đừng nói chuyện. Rồi cậu ta giơ di động lên cho tôi nhìn.

Tôi thấy trên màn hình di động của cậu ta có một tin nhắn chưa gửi đi, cậu ta dùng cái này làm bảng viết chữ, dòng chữ đó viết: 《Cách vách có ít nhất là ba người lỗ tai cực thính, nói thì thầm cũng vô ích. Lời vừa rồi nửa trước là thật, nửa sau là nói cho bọn chúng nghe. Cậu cứ diễn vai của cậu, những thứ khác cứ để bọn tớ giải quyết.》

Tôi gật đầu. Cậu ta lập tức xóa sạch dòng chữ trên máy đi, tốc độ ngón tay cực nhanh, sau đó, nháy mắt ra hiệu với Phan Tử.

Phan Tử sắc mặt tái nhợt, nhưng vẫn gật đầu. Tôi liền nghe thấy anh ấy kêu to: “Thưa các vị, Tam Gia mời, giao đồ rồi.”

Lời vừa dứt, từ tất cả các gian phòng bên cạnh đều vang lên những tiếng kéo ghế soàn soạt, vô cùng ồn ào. Chỉ chốc lát sau, liền thấy rèm che được vén lên, các lộ đầu trâu mặt ngựa lần lượt tiến vào hết người này đến người nọ, loáng một cái, cả gian phòng đã chật ních người.

Trước đó, trong lúc hỗn loạn, tôi chẳng qua chỉ loáng thoáng có ấn tượng với bọn họ. Tôi cứ luôn có một phán đoán rất sai lầm, đó là nhân vật lão đại chắc hẳn phải là những kẻ trông hung ác dữ tợn nhất trong số đó. Nhưng bây giờ quan sát kỹ, những người tiến vào cao thấp mập ốm đều có, trạc tuổi nào cũng có, nhưng mà, tất cả đều trông rất bình thường, không có gì bắt mắt.

Có mấy người lớn tuổi tôi vẫn còn quen mặt, cũng có những người còn rất trẻ tuổi. Xét tổng thể, những người này, cho dù tôi có cố gắng nhớ mặt thì cũng đã tương đối khó khăn rồi. Tôi nhớ chú Ba từng nói, những kẻ làm việc dưới đất, cho dù mặt mũi họ có lệch vẹo xấu xí đến thế nào đi nữa, nhìn một cái là cả đời không quên được cũng chẳng sao, nhưng còn những thủ hạ phải lăn lộn trong cả đống người để làm ăn buôn bán, thì tốt nhất là chọn những kẻ có vẻ ngoài tầm thường, ở đâu cũng gặp. Lấy đồ từ trong tay người chết thì dễ, lấy tiền từ trong tay người sống mới là khó nhất.

Thủ hạ của Tiểu Hoa di chuyển bốn cái ghế bên cạnh Phan Tử tới, đây là bốn cái ghế cho bốn đầu lĩnh của bốn cơ sở lớn ngồi. Hệ thống của chú Ba rất rõ ràng, ở đây phải giới thiệu một chút.

Ở Trường Sa, từ lâu đã tồn tại cả một hệ thống để tẩu táng tang vật trộm mộ, hệ thống này đã được hình thành và hoạt động từ cuối những năm Dân Quốc. Vì sao lại nói như thế? Ngược dòng về thời kỳ trước nữa, chắc chắn là cũng có những hệ thống tương tự như vậy đã từng tồn tại, tuy nhiên giữa dòng lịch sử rối ren, các loại hệ thống này đều đã bị hủy diệt trong những biến loạn nhiễu nhương, chúng tôi không biết những hệ thống xưa đó như thế nào nữa, chỉ biết rằng, hệ thống bây giờ là được truyền thừa từ thời Dân Quốc đến nay.

Việc mua bán đồ cổ được chia làm hai loại, là sưu tầm trong nước và buôn lậu ra nước ngoài. Tục ngữ nói “đồ cổ thời thịnh thế”, tức nghĩa là, chỉ vào thời thái bình thịnh thế, con người ta mới chuyên tâm sưu tầm cất giữ đồ cổ, nhưng câu cách ngôn cũ kỹ này khá phiến diện, nó chỉ đúng khi đặt trong một thế giới khép kín.

Đầu thời Khang Hy Càn Long cũng là thời kỳ thịnh thế, nhưng Đại Thanh lại bế quan tỏa cảng. Năm Thuận Trị thứ mười hai (năm 1655) đặt ra lệnh cấm đường biển kéo dài đến tận năm Khang Hy thứ hai mươi ba (năm 1684) mới được gỡ bỏ, đến năm Khang Hy thứ năm mươi sáu (năm 1717) lại cấm, sau đó cấm rồi lại gỡ, gỡ rồi lại cấm, cứ như là khoái bản* vậy, mặc dù tổng thời gian thì không quá dài, nhưng vẫn kiểm soát đường biển hết sức nghiêm ngặt. Trong thời gian đó, “đồ cổ thời thịnh thế” có phần chính xác, nhưng mà do cấm đường biển, áp bức nặng nề, hoạt động trộm mộ không đến mức hoành hành ngang ngược.

* Một loại hình nghệ thuật, vừa đọc vừa gõ phách theo nhịp.

Duy chỉ có khoảng thời gian sau thời Dân Quốc, một là phía nước ngoài có nhu cầu rất lớn, hai là các cửa khẩu trong nước được mở. Bản thân chính phủ còn không tự lo thân mình được, thế là lịch sử cận đại xuất hiện thời kỳ trộm mộ đạt đến đỉnh cao.

Thị trường rất lớn, lại không có ai quản lý, thế là cái gì cũng làm lớn.

Lúc ấy, hệ thống đầu tiên được hình thành chính là hệ thống buôn lậu. Ngọn nguồn của buôn lậu là từ giặc trộm mộ, về sau là “khách”, những người “khách” này đều là dân trong nghề đồ cổ, mua “minh khí” từ tay bọn trộm mộ, đem đến hai thị trường lớn là Bắc Bình và Thượng Hải để tiêu thụ, đặc biệt là Bắc Bình. Nhưng cũng chính trong thời gian này, đa số các món hàng tốt đều bị tuồn ra nước ngoài cả.

Sau này, nước Trung Quốc thành lập, hải quan kiểm soát ngày càng nghiêm, các hoạt động buôn lậu ra nước ngoài dần dần thu hẹp lại, nhưng hệ thống thì đã hình thành rồi. Những người thời ông nội tôi chính là đã lớn lên trong cái thời đại xưa ấy, bọn họ đã thành công trong việc sống sót đến tận thời kỳ cải cách mở cửa, cho nên, hệ thống đó mới được kéo dài cho đến tận ngày nay. Thời kỳ Văn Cách kết thúc, sau khi biên giới phía Nam Trung Quốc và đường biển bắt đầu xuất hiện những hoạt động buôn lậu, một lượng lớn minh khí tích trữ và ẩn giấu được trong suốt quãng thời gian này liền tìm cách tuồn ra, chú Ba đã lợi dụng hệ thống của thế hệ trước, bắt đầu tiếp nối sự nghiệp cũ, phát triển rực rỡ một thành viên trong nhóm người kia.

Đương nhiên, hiện nay đám nhà giàu và dân sưu tầm trong nước là kình địch lớn đối với đám buôn lậu nước ngoài, đây cũng là nguyên nhân khiến thị trường giao dịch đồ cổ ở khắp các nơi trở nên phồn thịnh chưa từng thấy.

Như vậy là có thể hiểu được mối quan hệ làm ăn giữa chú Ba ở Trường Sa, Hàng Châu cùng Hoắc gia và Tiểu Hoa ở Bắc Kinh, huống hồ, còn có những mối quan hệ thông gia giữa Ngô gia và Giải gia nữa.

Nhìn chung, tất cả các cơ sở của chú Ba ở Trường Sa chủ yếu chỉ phụ trách hai công việc: một là xuống đất kiếm hàng, hai là tiêu thụ.

Cơ sở phụ trách việc xuống đất lấy hàng, chúng tôi gọi là “Lạt Ma bàn”, cơ sở phụ trách việc tiêu thụ buôn bán thì gọi là “Mã bàn”.

Phương thức vận hành của hệ thống này như sau:

Loại người như chú Ba, được gọi là “Đũa sắt”, tức là kẻ khai thác các mối trong chuỗi sản nghiệp của mình, nắm độc quyền các nguồn tài nguyên tốt nhất bao gồm thông tin về cổ mộ, kiến thức về dò mộ và giám định minh khí.

Các Đũa sắt này sẽ giao những thông tin về vị trí mộ cổ và triều đại ngôi mộ mà mình nắm giữ cho cơ sở Lạt Ma bàn bên dưới tiếp nhận. Đũa sắt sẽ phái một “Đầu đũa mang thông tin đi, dẫn Lạt Ma bàn gắp các Lạt Ma, rồi cùng nhau xuống đất lấy hàng. Đây chính là hoạt động “gắp Lạt Ma”. Phan tử chính là Đầu đũa rất nổi danh dưới trướng chú Ba.

Đồng thời, bên cạnh Lạt Ma bàn sẽ có một “Mã bàn” quen thuộc đi cùng, chờ ở một bên, khi đồ vừa mới ra lò, còn chưa “nguội”, phía Mã bàn đã liên hệ với khách hàng xong xuôi, cũng bố trí xong đường dây vận chuyển, sau đó, thực hiện hoạt động giao dịch ngay tại chỗ. Đồ vừa nguội, Mã bàn đã đem đi luôn, toàn bộ hoạt động trộm mộ cũng kết thúc.

Loại hệ thống này tẩu táng tang vật rất nhanh, miễn là không bị bắt ngay tại trận, thì có chết cũng chỉ có Mã bàn bị tóm mà thôi, Đũa sắt và Lạt Ma bàn không phải chịu bất kỳ liên lụy nào. Bởi vậy, hoạt động trộm mộ vẫn liên tục hoành hành mặc dù đã bị pháp luật nghiêm cấm. Mà đối với Đũa sắt và Lạt Ma bàn, loại nhân vật như Mã bàn, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chết vài tên thì có sá gì.

Cơ sở tiêu thụ của chú Ba có số lượng Mã bàn rất đông, những kẻ bước vào gian phòng này chỉ là những tên to đầu nhất trong số những tên to đầu. Khiến chú Ba phải kiêng dè, chính là bốn tên đầu lĩnh Lạt Ma bàn kia, mà hôm nay, bốn người ngồi trên ghế cũng chính là bốn kẻ này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co