Truyen3h.Co

Phach Phien Ngu Su Dai Phu Bao Tau Kim Ngu

Chương 3: Hồ Khúc Giang

Mốc dịch

Ngu Toàn Cơ uống một trận say khướt.

Lúc tỉnh dậy trăng đã lên cao. Phía xa xa văng vẳng tiếng chiêng vàng, từng tiếng lanh lảnh chói tai, cô kéo chăn trùm lên đầu để khỏi nghe thấy tiếng ồn, nhưng nằm trong chăn cả người đẫm hơi rượu vẫn nghe thấy rõ mồn một, lại đành phải thò đầu ra, Xuân Nương hình như không thắp đèn dầu, căn phòng hơi tối, cô chưa rửa mặt chải đầu, mắt cũng nhập nhèm không nhìn rõ mọi thứ.

"A..." Ngu Toàn Cơ không màng đến hình tượng ngáp một cái rõ to, chỉ mới động não nghĩ mà đầu óc loạn cào cào như sữa vừa mới nấu đặc xong, không thể khuấy nổi, "Lâu rồi không uống say thế này..."

Ngu Toàn Cơ chống người dậy, duỗi thẳng hai chân ngồi trên sập, sửng sốt gãi đầu... Ừm, vẫn ổn, búi tóc chải lúc ra khỏi nhà vẫn chưa bung, cô gõ mạnh vào đầu mình mấy cái, rồi ngáp thêm cái nữa mới cảm thấy tỉnh táo hơn chút ít.

Sao lại uống say bí tỉ thế này được nhỉ? Cô ôm đầu mất nửa khắc đồng hồ để nghĩ lại...

"À! Đi xem tự tiến cử văn chương!"

* * * * *

Tháng mười ở vùng ngoại thành Tây Kinh, hồ Khúc Giang vốn khi xuân đến nườm nượp người du xuân như trẩy hội, giờ đây lá khô rụng trơ cành, yên tĩnh hơn rất nhiều, trên mặt hồ rộng lớn chỉ còn lơ thơ một vài bông sen, mấy cành khô lá đỏ không biết từ đâu trôi đến lềnh bềnh trên mặt nước, liễu rũ ven hồ chỉ còn lại cành cây khẳng khiu ngắc ngứ khiêu vũ trong không khí. Cỏ hoa tươi tốt, rừng cây um tùm lúc này tiêu điều hoang sơ, lá vàng phủ kín một lớp dày lên mặt đất màu nâu, chôn vùi ve sầu mùa hè côn trùng mùa thu bên trong, dẫm chân lên tạo thành tiếng sột soạt.

Ngu Toàn Cơ cưỡi tạm một con ngựa gầy, tay cầm vò rượu nhỏ, thưởng thức khung cảnh vắng vẻ khó tìm thấy ở kinh thành.

Tây Kinh có hàng triệu hộ dân, trong đó quan lại văn võ dòng trong dòng ngoài tổng cộng ít nhất ba mươi nghìn người, thêm Hoàng tộc, sĩ tử đến dự thi và quan viên tuyển chọn cũng phải lên tới bốn mươi nghìn người, lại tính thêm cả nô bộc người nhà quan lại văn võ, con số khiêm tốn nhất cũng là trăm nghìn người, nói cách khác, ở Tây Kinh, trong mười người lại có một người liên quan đến quan phủ. Bởi vậy sống ở Tây Kinh không chỉ chi tiêu khó khăn, mà ứng phó với các loại quan hệ phức tạp lằng nhằng đã đủ đau đầu rồi.

Mấy ngày qua đến kinh thành, vừa mới tới Lễ Bộ báo tên mà không bao lâu sau Lễ Bộ đã sai người đến điều tra xuất thân, quê quán, gia thế bối cảnh và nơi sống. Người của Lễ Bộ vừa đi, thì một người đàn ông trung niên ăn mặc theo kiểu thương nhân lại đến, chỉ đích danh tên cô muốn gặp mặt, "Ngu quan nhân."

"Xin hỏi ông là...?"

"Tiểu nhân là đội trưởng Lưu Lao Tân của tiến sĩ đoàn (1) Lưu Thất chợ Tây, nghe nói Ngu quan nhân đến báo tên kì thi năm nay, nên hôm nay đến đây giúp chút sức mọn cho quan nhân, chuyện của quan nhân, kẻ hèn tôi ắt sẽ tận tâm tận lực." Lưu Lao Tân chắp tay nói, đôi mắt hẹp dài nổi bật trên gương mặt tròn, thoạt nhìn có vẻ giàu có, hắn đưa một cuốn sổ bìa đỏ cho cô, "Đây là lịch trình kẻ hèn đã trộm cho quan nhân, mong quan nhân sớm ngày vượt long môn."

Nghe ngóng mau lẹ, chân tay nhanh nhẹn... Ngu Toàn Cơ thầm nghĩ, "Tiến sĩ đoàn" là tổ chức chuyên cung cấp tất cả những thứ cần thiết cho những tiến sĩ thi đỗ, bao trọn từ chuẩn bị yến tệc, sắm sửa trang phục, dẹp đường đi lối lại, thậm chí trên danh nghĩa chỉ cần chi tiền, trước kì thi họ sẽ thay thí sinh tuyên truyền khắp nơi để lấy danh tiếng. Hiện giờ ở Tây Kinh có khoảng hơn mười tổ chức tiến sĩ đoàn, mỗi kì thi mỗi đoàn chỉ cần "chăm sóc" dăm ba vị tiến sĩ là kiếm đủ món lớn, ngoài ra bình thường cũng giúp các thí sinh đỗ ở các kì thi khác như kì thi châu, thư phán bạt tụy khoa, kì thi minh kinh, Bác Học Hồng Từ... lo liệu những chuyện liên quan. Có điều "Tiến sĩ đoàn" cũng chia ra dăm bảy loại, tiến sĩ đoàn "chăm sóc" các vị tiến sĩ đứng thứ nhất, thứ hai, thứ ba không chỉ thu phí khá cao, mà còn có thể tạo được danh tiếng, cũng hay được các vị khách trước đây dẫn mối, bởi vậy tiến sĩ đoàn còn tích cực tìm kiếm các thí sinh có tiềm năng hơn cả quan khảo thí, nhanh chóng đến chỗ các thí sinh chào hỏi, tạo họ ấn tượng tốt về tiến sĩ đoàn của mình, nếu có ngày họ đề tên bảng vàng thì không bị kẻ khác cướp mất mối làm ăn.

Còn Lưu Lao Tân là đội trưởng của tiến sĩ đoàn hàng đầu Tây Kinh, đến thế hệ của hắn, tiến sĩ đoàn Lưu Thất đã truyền qua bốn đời, nghe nói đội trưởng mấy đời này đều có con mắt rất tinh tường, rất biết cách nhìn xa trông rộng, có những lúc hắn không chỉ chào hỏi tiến sĩ khoa thi này, mà cả thí sinh năm ngoái thi rớt năm nay đến thi lại hắn cũng đến tận nhà hỏi han, tạo đủ thể diện và niềm tin cho thí sinh đó. Nên họ không chỉ "chăm sóc" tiến sĩ, thuận tiện còn sắp xếp cho tiến sĩ đăng kí thi tiếp thư phán bạt tụy khoa hoặc Bác Học Hồng Từ khoa, nếu thi đỗ một trong hai khoa thi này vậy thì tiền đồ của các tiến sĩ phải nói là rộng mênh mông, đương nhiên việc làm ăn cũng lên hương theo.

Dù biết rõ tiến sĩ đoàn chuẩn bị moi tiền từ túi cô, nhưng đội trưởng tiến sĩ đoàn hàng đầu Tây Kinh đến chào hỏi mình nhanh đến vậy, hiển nhiên đoán chắc cô có thể thi đậu, thật ra Ngu Toàn Cơ hơi đắc ý, liền cười nói: "Đội trưởng nhọc lòng rồi."

"Sao dám nhận một chữ 'nhọc' của quan nhân?" Lưu Lao Tân cũng mỉm cười đáp lại, chắp tay không tiếc lời nịnh hót, "Ngu quan nhân danh tiếng lẫy lừng, nghe nói quan nhân mấy lần vào kinh, kẻ hèn đều muốn tới thăm hỏi, ngặt nỗi chỉ sợ quan nhân không muốn để lộ hành tung của mình nên đành thôi. Lần này quan nhân vào Lễ Bộ, mười sáu tiến sĩ đoàn ở Tây Kinh đều chấn động, ai cũng nói cuối cùng tiên giáng trần quay về đài các rồi. Kẻ hèn phải tốn rất nhiều công sức mới nghe ngóng được nơi ở của quan nhân, mau chóng đến chào hỏi trước, vốn nghĩ quan nhân vang danh thiên hạ đã mười năm qua, dù nói thế nào cũng là một nửa lão phụ nhân. Nào ngờ quan nhân lại là một vị nương tử xinh đẹp nhường này, thi Lại Bộ phải qua bốn cửa 'Thân ngôn thư phán' (2), chỉ riêng dung mạo của quan nhân thôi không biết đã vượt qua bao nhiêu tên đàn ông xấu xí rồi."

Ở một mặt nào đó Ngu Toàn Cơ tán thưởng người này khéo ăn khéo nói, nịnh nọt người ta quá thành thạo, một mặt khác cũng không khỏi mừng thầm. Liên tục ra trận khắp thiên hạ mười năm, không trận nào không thắng, nhưng đều phải sống dưới danh tiếng kẻ khác, không lần nào lấy tên mình đi thi, cô chỉ thuộc tầng lớp giữa, bình thường đi trên đường dù không đến nỗi bị ném gạch nhổ nước miếng vào mặt, nhưng cũng chưa bao giờ có chuyện xe ngựa đón rước, bởi vậy rõ ràng cô biết mấy lời khen ngợi lúc này là nịnh nọt nhưng nghe mà nở mày nở mặt, bèn cười đáp: "Không hổ là đội trưởng Lưu, chỉ mấy lời của ông thôi mà làm tôi mát lòng mát dạ, nếu Ngu mỗ có ngày đỗ đạt, chắc chắn sẽ nhờ đội trưởng làm giúp mọi chuyện."

"Kẻ hèn không dám nhận một chữ "nhờ" của quan nhân, kẻ hèn chỉ kiếm miếng ăn mà thôi, nếu có thể giúp được quan nhân thì cầu còn không được, cầu còn không được." Hai bên lại vui vẻ nói chuyện thêm một lúc, Lưu Lao Tân cũng không gấp gáp để chốt vụ này, hắn cực kì am hiểu đạo làm ăn, sau đó còn cố ý nói, "Kè hèn này đến chào hỏi quan nhân trước, chủ yếu vì muốn kết giao với vị thần tiên từ trên trời giáng xuống là quan nhân đây, không phải vì làm ăn buôn bán gì, nếu quan nhân ưng ý chỗ khác thì cũng đừng khách sáo."

"Nào có, nào có, nếu đỗ đạt đương nhiên sẽ mời đội trưởng giúp tôi sắp xếp kế hoạch." Ngu Toàn Cơ nói, Lưu Lao Tân thấy vụ làm ăn này nằm chắc trong tay bèn chào tạm biệt để đến chào hỏi tiến sĩ tương lai khác. Ngu Toàn Cơ gọi Xuân Nương tới, "Xuân Nương, nếu có người của tiến sĩ đoàn khác đến, em cứ khéo léo nói Lưu đội trưởng đã qua đây là họ biết."

"Vâng."

"À, con lừa của chị đã đưa cho ông lão bán men rượu rồi, cần mua một con lừa khác dùng tạm, giúp chị thay quần áo, chị đến chợ ngựa ở chợ Đông một chuyến."

"Vâng."

Mấy lời tâng bốc của Lưu Lao Tân làm tâm trạng của Ngu Toàn Cơ phơi phới, cô thay một chiếc áo da cổ gấp may từ lĩnh hai màu tím hoa đinh hương và trắng kem, mép áo không có viền, eo thắt đai lưng da màu đen, phía dưới treo một túi thơm, chân đi ủng đen hơi cũ, tóc tai búi gọn gàng trên đỉnh đầu, cũng không cài thêm trang sức gì, chỉ đội một chiếc mũ cao che nửa tai làm bằng lông cáo trắng, ăn mặc theo cách người Hồ đang thịnh hành bấy giờ xong cô mới thong thả ra ngoài đi về phía chợ ngựa.

Nhà của cô nằm ở ngõ Vân Thâm góc Tây Nam phường Bình Khang, Ngu Toàn Cơ ra khỏi ngõ Vân Thâm thì đến phố Thập Tự phường Bình Khang, đến chỗ giao phố Thập Tự rẽ về phía Bắc là ra khỏi phường Bình Khang vào chợ Đông. Thời tiết hôm nay khá đẹp, mọi người đều tập trung ở chợ Đông mua bán, dù không đến mức người đông như nêm nhưng cũng không phải không tấp nập, Ngu Toàn Cơ đến chợ ngựa nhìn giá tiền gia súc, lừa la hôm nay không tốt cho lắm, cô không ưng con nào, bởi vậy đành phải đến các khu xung quanh xem thế nào.

"Tiểu nương tử đến xem vật cưỡi sao? Ngắm mấy con ngựa Quả Hạ (3) này đi! Không cần thuần phục cũng không cần cưỡi thử, ngoan ngoãn y hệt nô lệ Côn Luân, tôi bảo đảm không sai vào đâu được." Một người phụ nữ mời chào Ngu Toàn Cơ, chân con ngựa Quả Hạ vừa thô vừa ngắn, phụ nữ chỉ cần nhún chân là trèo lên được.

"Tiểu nương tử ăn mặc trang phục gọn gàng kiểu này, đừng cưỡi con ngựa lùn tè tè thế kia!" Một người đàn ông cao lớn râu ria xồm xoàm gào rõ to, ra sức vẫy tay với Ngu Toàn Cơ, "Con ngựa Tiểu Hồng Đại Uyển (4) này đẹp biết bao! Tiểu nương tử cưỡi con ngựa đỏ này, cùng lang quân đến ngoại ô kinh thành đua ngựa đánh cầu tuyệt đối không thua!"

"Nào nào đến xem con ngựa Vân Trung của lão, chịu được cực khổ, sức dài dẻo dai, tiểu nương tử mua về để kéo xe còn hay hơn dùng để cưỡi."

Một đám buôn ngựa mồm năm miệng mười, gặp ai cũng nói luyên thuyên một tràng, Ngu Toàn Cơ không thích ngựa Quả Hạ chậm rì rì, ngựa Đại Uyển tuy đẹp nhưng sợ khó thuần phục, mà mua ngựa Vân Trung về lại còn mất công mua xe, cô không vừa lòng con nào, quay qua quay lại không chọn được con ngựa ưng ý, một tiểu lại trong chợ ngựa vừa mới ra ngoài bàn công chuyện, lúc về thấy cô vẫn chưa tìm được con ngựa nào hài lòng, bèn hỏi: "Tiểu nương tử vẫn chưa chọn được ngựa ưng ý ư?"

"Vừa muốn ngựa tốt lại vừa muốn giá rẻ, không dễ chút nào." Ngu Toàn Cơ mếu máo đầy bất lực.

Tiểu lại đã quá quen với chuyện này liền chỉ một chỗ phía sau chợ ngưa, "Mấy con ngựa Kinh mà mấy hôm trước Đông Cung Vệ Suất phủ đào thải đều đã quá mười lăm tuổi, tuy tuổi hơi cao nhưng nếu tiểu nương tử chỉ đi tản bộ thong thả thì không vấn đề gì. Tiểu nương tử xem thế nào, nếu thích thì giá cả dễ thỏa thuận thôi, không đắt hơn lừa bao nhiêu."

"Vậy thì tốt quá, phiền quý lại dẫn tôi đi xem."

Tiểu lại liền dẫn Ngu Toàn Cơ đến xem ngựa, quả thật như tiểu lại đó nói, đàn ngựa Kinh này dù hơi già nhưng đều được coi là giống ngựa tốt đạt chuẩn, có điều mấy ngày qua được nuôi trong chợ ngựa nên ăn uống không tốt cho lắm, môi trường sống cũng khá bẩn, nhìn chúng có vẻ uể oải. Tiểu lại vô cùng niềm nở giúp Ngu Toàn vạch mõm ngựa để xem răng tính tuổi, rồi lại giúp cô kiểm tra xem con ngựa có bệnh tật gì không, cuối cùng chọn được một con ngựa cái đốm hoa, cô hỏi giá tiền, đắt hơn lừa mấy trăm xu, trả giá xong với viên tiểu lại đó thì chốt lại với cái giá rẻ hơn lừa một quan tiền, sau đó lại mặc cả thêm một bộ yên ngựa cũ giá rẻ, xong xuôi mới đến giữa chợ ngựa viết khế ước trả tiền.

"Chúc mừng tiểu nương tử chọn được con ngựa tốt." Tiểu lại cứng nhắc mở miệng.

Ngu Toàn Cơ nói cảm ơn, tiểu lại đó cũng coi như có lòng thành, nhân lúc cô viết khế ước còn tắm rửa cho con ngựa sạch sẽ, buộc yên và hàm thiếc dây cương lên, rồi còn đeo một chiếc túi vải ở cổ ngựa, bên trong nhét đầy cỏ để con ngựa vừa đi vừa ăn, sau đó mới dắt đến chỗ cô, "Chúc mừng tiểu nương tử chọn được ngựa."

"Đa tạ quý lại, vất vả rồi." Ngu Toàn Cơ lại cảm ơn thêm lần nữa, nhét ba mươi đồng Hoằng Huy coi như cảm tạ, tiểu lại nói một tiếng cảm ơn rồi nhận lấy, đỡ cô lên ngựa xong thì mới quay trở lại chợ. Con ngựa cái đốm hoa ngoan ngoãn bước đi, Ngu Toàn Cơ vuốt ve đầu nó, cảm thấy hôm nay kiếm được món hàng cực hời, tâm trạng càng thêm vui sướng, nhìn những đốm hoa trên thân con ngựa, cô liền nói: "Đặt tên cho mày là Sương Hoa được không?"

Con ngựa cái vùi đầu ăn ngấu nghiến, đương nhiên không phản đối, Ngu Toàn Cơ vỗ về cô nàng, "Sương Hoa, chúng ta đến Khúc Giang thôi."

Ngu Toàn Cơ cưỡi Sương Hoa ra khỏi chợ Đông, đi men Đông Thành về phía nam, ánh nắng mùa đông sưởi ấm con đường chạy về hướng nam, dọc đường san sát đình đài phủ đệ của quan lớn quý nhân và miếu đền chùa chiền, từ đỏ thẫm, xanh đậm đến xám sậm đều đủ cả, phủ đệ của quan nhân quý tộc và quan tự quan quán được sắc phong đều dùng ngói lưu ly, dưới ánh nắng vô cùng rực rỡ. Móng sắt của Sương Hoa có lẽ hơi bị lỏng, nó gõ lộp cộp xuống mặt đất, Ngu Toàn Cơ cũng không quá để ý, dù sao ngày mai không có gì làm thì dắt nó đến lò rèn sửa lại là xong.

Đi khoảng một canh giờ thì đến Thành Nam, dân cư Thành Nam thưa thớt, bởi vậy Ngu Toàn Cơ cho con ngựa chạy nhanh hơn, ra khỏi phố phường, vòng qua chùa Đại Từ Ân, chạy thẳng đến ven hồ Khúc Giang. Càng đi về phía nam ánh nắng càng yếu dần, đến Khúc Giang chỉ còn thấy mây đen rợp trời, dù không mưa nhưng trời âm u.

Khúc Giang, cũng được gọi là Lạc Du Uyển, Lạc Du Nguyên, Cái Xuyên, Đỗ Lăng Nguyên, nằm trên Cổ Hồng Cố Nguyên, từ xưa đến nay là hồ nước do nước suối tích tụ mà thành, Lăng Nguyên phía bắc nhấp nhô, rừng xanh trập trùng, phía nam có khe núi hẹp, nước biếc chảy róc rách. Nghìn năm trước vị thần Tương tác đại tượng ấy khi xây dựng thành đã nhận ra, vì nơi này tuy nằm trong thành nhưng địa thế cao, bốn phía mở rộng, có thể bao quát mọi chuyện ở thành trong tầm mắt, không thích hợp cho dân chúng sinh sống.

Bởi vậy Tương tác đại tượng đào hồ Nam ở phía nam hồ Khúc Giang để làm li cung, mở kênh Hoàng dẫn nước từ khe núi Tần Lĩnh qua kinh thành, trước tiên để nước trong hồ Nam chảy vào hồ Khúc Giang, rồi lại xây li cung bao xung quanh hồ Nam, đặt tên là Khúc Giang Viên. Cao Tổ khai quốc Văn Hoàng đế đổi tên hồ Nam thành hồ Phù Dung, Khúc Giang Viên thành Phù Dung Viên, thế nên hồ Phù Dung, hồ Khúc Giang chỉ trồng toàn hoa sen, dù cấm uyển của li cung không cho phép người ngoài ra vào, nhưng hồ Khúc Giang luôn là nơi cho dân chúng vui chơi.

Vào mùa thu đến hồ Khúc Giang vẫn có thể thưởng thức cảnh thu, mùa đông gần như không có dấu vết con người, ngay cả trong li cung cũng chỉ còn một vài cung nữ và nội thị quét dọn vệ sinh mà thôi.

Cho nên hồ Khúc Giang vào mùa đông tràn ngập đủ loại chuyện kì quái, gì mà cung nữ được lâm hạnh một đêm xong bị đày tới li cung, sau đó trượt chân ngã xuống nước mà chết, năm sau tôn thất hoàng gia tới đây nghỉ mát, các cung nữ khác vẫn thấy nàng ta đến làm việc, có điều người ngợm ướt nhẹp, sau này khi dọn dẹp hồ trong viên thì vớt được một cái xác, chính là xác cung nữ đó, trong tiếng hét hoảng hốt của mọi người, linh hồn cung nữ nọ ngậm căm hờn mà tan biến, nhưng mỗi khi mùa đông đến cung nữ ấy sẽ quyến luyến chẳng chịu đi.

Hoặc là câu chuyện tình yêu giữa kĩ nữ của Nghi Xuân Bắc Uyển và Quận vương trẻ tuổi, kết quả vào giữa đông, phiên trấn phản loạn tấn công vào kinh thành, tin tức truyền tới, hai người hẹn ước nếu lạc mất nhau thì sẽ chờ nhau ở bờ hồ Khúc Giang, thế nhưng Quận vương lại hoảng hốt chạy về phía tây theo Hoàng thất, kĩ nữ trong dòng người loạn lạc không đi theo kịp, lúc đến Khúc Giang thì bị quân phản loạn làm nhục, rồi bị đẩy vào trong hồ, thân xác chôn vùi trong ấy. Còn Quận vương sau khi đi về phía tây, vì để cầu xin Đại Hãn Hồi Cốt xuất binh viện trợ mà tự nguyện hòa thân, trở thành phò mã của công chúa Hồi Cốt, hòa thân không lâu thì qua đời do không hợp với đất nước nơi đó, thi thể không được đưa về quê hương, nhưng hồn phách bay qua vạn dặm núi sông biên quan, gặp lại hồn phách của kĩ nữ ấy ở ven bờ hồ Khúc Giang. Do vậy mỗi khi mùa đông đến, chúng ta thường nhìn thấy quan nhân mặc áo gấm và một thiếu nữ du thuyền trên hồ.

Hai câu chuyện trên không đáng sợ cho lắm, còn có chuyện kể rằng có mấy con hồ tiên sống trong rừng Khúc Giang, nghe nói thường xuyên giả làm ma quỷ bắt cóc trêu đùa du khách. Đồn đại nhiều hơn nữa là chuyện kẻ sĩ nhảy hồ tự sát vì không thi đỗ và cung nữ cả đời không nhìn thấy ánh mặt trời, hai loại hồn ma này rất nặng oán khí, nghe đâu thích nhất kéo người khác xuống nước để chết thay mình. Ngoài ra còn có ma sông quỷ núi, Long vương Khúc Giang, tóm lại yêu ma quỷ quái đều sống bên bờ Khúc Giang.

Ngu Toàn Cơ thúc ngựa đến bên bờ hồ, Sương Hoa đã ăn xong cỏ trong túi nhưng hình như vẫn chưa no, nó vừa đi vừa cúi đầu dùng mũi ngửi tìm đồ ăn, Ngu Toàn Cơ xuống ngựa, buộc Sương Hoa vào thân cây liễu, rồi lấy vò rượu trong cái túi dưới yên ngựa ra.

Cô dốc vò rượu vào miệng, Sương Hoa sáp tới đẩy đẩy mặt cô, cô cười khúc khích: "Người xưa nói, rượu lạt uống no nửa, thanh xuân không phai tàn, đúng là không bao giờ sai!"

Ngu Toàn Cơ ngồi bên bờ hồ uống rượu, ngắm con sóng gợn lăn tăn từ giữa hồ lan ra xung quanh, phía không xa có mấy con thuyền cào cào đang buộc ở đầu bến, nhẹ nhàng đong đưa theo sóng nước, thi thoảng phát ra những tiếng lộp cộp. Ngu Toàn Cơ vốn không để ý lắm, nhưng Sương Hoa bỗng nhiên khựng lại, đầu rời khỏi mặt đất ngẩng lên nhìn, hai tai động đậy, "Sương Hoa? Sao thế?"

Sương Hoa nhìn quanh bốn phía, đột nhiên nhìn về phía hồ, Ngu Toàn Cơ thấy hòn đảo nhỏ giữa hồ không hề có người, đang định cười mình đa nghi thì chợt nghe thấy giọng hát của một cô gái: "... Thiếp sinh chàng chưa sinh, chàng sinh thiếp đã già, thiếp cách chàng chân trời, chàng xa thiếp góc bể..."

Gì đây!!!!! Ngu Toàn Cơ suýt nữa hét lên thất thanh, vội vội vàng vàng che miệng lại.

Đây đây đây... đây đây đây... đây chính là bài hát hẹn thề của đôi ma quỷ Quận vương kĩ nữ trong truyền thuyết đó sao! Nghe nói bài hát này lưu hành từ ba trăm năm trước, hiện giờ không có ai đang hát, mà với thời tiết này, ở nơi này hát bài hát này, còn ai vào đây nữa?

Ngu Toàn Cơ vỗ nhẹ vào mặt mình mấy cái, ép bản thân bình tĩnh lại, lấy mấy viên nhang trong túi thơm ra, run run cầm đá đánh lửa châm nhang. Mùi mộc hương khoan khoái bay lên, cô lại giơ vò rượu lên cao vái lạy, sau đó vẩy vào trong hồ, cất giọng nói run lẩy bẩy không khác gì cái tay đang run: "Tại hạ... tại hạ... làm phiền sự sự yên tĩnh của hai hai hai vị... rất xin xin xin lỗi... nhang rượu đây xin xin xin hai vị vui lòng lòng nhận cho!"

"Đã làm phiền sự yên tĩnh, chỉ dùng chút đồ thế này mà muốn đuổi đi sao?" Giọng nói đàn ông nhẹ như bẫng vang lên sau lưng.

Chết cha! Con ma này cũng mạnh thật, dù bây giờ trời âm u nhưng ít nhất vẫn là ban ngày mà, chẳng lẽ người Hoàng tộc ngay cả làm ma cũng phải mạnh mẽ thế? Chắc không có hội liên minh hữu nghị giữa Hoàng tộc và âm phủ đấy chứ? Ngu Toàn Cơ không dám nhìn, che mặt lắp bắp: "Tại hạ đã mạo phạm đến Đại vương vương và nương nương nương nương... nương tử, hôm nay vội vàng ra ngoài, chỉ chỉ chỉ mang một ít đồ, hôm khác đến đến đến sẽ đốt nghìn nghìn lượng vàng, vạn vạn vạn lượng bạc trắng, chuẩn bị cho Đại vương vào sòng sòng bạc chơi, xin xin Đại vương giơ giơ giơ cao đánh khẽ, tha tha tha cho cái mạng của tại hạ."

"Vàng hay bạc trắng chẳng phải là của hiếm gì với ma quỷ, nghe nói tìm một người thế thân rất khó, ngươi có cần suy nghĩ xem nên nhảy xuống không? Đơn giản lắm." Giọng nói ấy nhẹ như không, cái từ "nhảy xuống" vừa thốt ra bình thường không khác gì ném thia lia.

Chỉ bất cẩn gặp phải xác chết bẩn thỉu, xác chết dọc đường mà thôi, làm gì có chuyện hẹp hòi đến nỗi đòi dùng mạng để đổi! Dùng cơ thể gán nợ còn hợp lý hơn! Ngu Toàn Cơ bất bình nghĩ thầm, nhưng vẫn cung kính run rẩy lên tiếng: "Tại tại tại hạ cũng chỉ có thể cầu nguyện nương tử thoát khỏi bể khổ, như như như vậy chẳng phải Đại vương không còn cô đơn nữa sao? Bằng không tại tại hạ đốt ít vàng bạc để Đại vương và nương nương nương tử sống ngày ngày thoải mái dưới âm âm phủ nhé, đây gọi là nhân gian trăm ngàn bể khổ con người khổ nhất, còn còn còn không thoải mái bằng làm ma!"

"Quả thật làm ma còn thoải mái hơn làm người." Giọng nói đó lại cất lên, dù lạnh nhạt không có cảm xúc gì nhưng hình như hắn đã dao động rồi, quả nhiên gặp ma phải gãi đúng chỗ ngứa mới hiệu quả, Ngu Toàn Cơ thầm thở phào một hơi, thế mà lại nghe thấy người nọ nói: "Cô muốn quỳ ở đây bao lâu?"

"Nếu Đại vương lệnh cho tại hạ đứng lên, vậy thì tại hạ sẽ đứng lên." Ngu Toàn Cơ hùa theo.

"Đại vương cô nói đã chết ba trăm năm rồi, chẳng lẽ cô cũng quỳ ở đây ba trăm năm cho đến khi hắn bật mồ sống dậy sao?"

Ơ! Không phải là hồn ma của Đại vương sao?

Ngu Toàn Cơ nghe thấy vậy ngẩng phắt đầu lên, đối diện là mũi ủng da bóng loáng và áo bào màu xanh ngọc có viền, hiển nhiên là kẻ sĩ... Ngu Toàn Cơ nhướn mày, khốn kiếp, dám giả thần giả quỷ à?

Thoắt cái cô bò dậy, phủi sạch đất cát ở đầu gối, tức tối nói: "Anh giả thần giả quỷ không sợ gặp báo ứng sao!"

Người nọ làm như không thấy Ngu Toàn Cơ nổi giận, không hề nao núng mà đáp: "Không sợ, người đã chết rồi còn sợ gì gặp báo ứng!"

Tên khốn, mi không sợ nhưng bà đây sợ! Ngu Toàn Cơ nghĩ thầm.

Ơ! Nhưng mà ban nãy hắn vừa nói gì cơ? Người đã chết rồi... người đã chết rồi!! Cả người Ngu Toàn Cơ cứng ngắc... Kẻ sĩ này... nói người đã chết rồi... chẳng lẽ sĩ tử thi rớt nhảy hồ tự sát trong truyền thuyết ư? Cô hối hận đêm qua mắc gì mà ngồi nghe chú Trác kể chuyện ma, càng hận trí nhớ bản thân mình không thể quên được mấy tin đồn tầm phào một khi đã vào tai, lúc này một câu cũng không thốt nổi ra miệng, vội vã quay người đi cởi dây buộc của Sương Hoa.

"Cô phải đi rồi sao?" Người nọ hỏi.

"Ừ ừ ừ... làm phiền anh rồi... hẹn hẹn... không đúng... không hẹn ngày gặp lại!"

Vừa dứt lời, Ngu Toàn Cơ trèo lên lưng Sương Hoa với tốc độ nhanh chưa từng thấy, phi nước đại cao chạy xa bay.

* * * * *

Ngu Toàn Cơ chạy hết sức bình sinh như bị ma đuổi, vừa chạy vừa chửi tục xua tà đuổi ma làm Sương Hoa sợ hãi tăng thêm tốc độ, một người một ngựa chạy về hướng đông, đến phố Khải Hạ Môn thì rẽ về phía bắc vào phường Đại Nghiệp, đến trước đạo quán thì cô ghìm dây cương của Sương Hoa lại, lúc đó móng sắt của nó đều bị rơi ra hết, cô buộc bừa dây cương vào một cọc ngựa rồi chạy vọt vào đạo quán.

"Ký Lan! Ký Lan! Ký Lan ~~~" Ngu Toàn Cơ quen đường quen lối rẽ qua đại điện đi thẳng vào tĩnh viện, vừa chạy vừa hét lên đầy hoảng sợ, "Ký Lan mau cứu tôi với!"

"Rầm" một tiếng, cửa sổ tĩnh phòng mở toang, một thiếu phụ mặc trang phục đạo sĩ thò đầu ra, cất giọng nói không quá nho nhã bằng khẩu âm Hoài Nam dịu dàng mềm mại lên, "La gì mà la! Muốn chết à? Chỗ tôi còn đang có khách!"

"Tôi cóc quan tâm cô có khách hay không, cho tôi mượn chỗ cô trốn lúc!" Ngu Toàn Cơ không thèm đi bằng cửa chính mà nhảy qua cửa sổ đang mở rộng, chui vào trong ổ chăn thiếu phụ kia vừa mới gấp gọn gàng, kéo chăn che kín đầu.

"Này! Cô vẫn còn đeo giày đấy!" Thiếu phụ giật mình hô lên, tiếp theo đó là mấy tiếng bộp bộp, đôi ủng da màu đen nằm lăn lóc dưới sập, còn ổ chăn phía trên thì run bần bật, thiếu phụ vỗ thật mạnh vào cái chăn, sau khi nghe thấy tiếng thở rì rầm bên trong mới nói với người ta: "Đúng là thất lễ quá, tính cách cô ấy là vậy đấy, gây chuyện xong thì trốn trong chăn tôi, bên ngoài nói cô ấy gì mà làm việc nghĩa hiệp, đứng bên kênh đào mắng quan vận chuyển là con dê thối khốn nạn gian ác tám kiếp sau không được đầu thai, tôi không bao giờ tin."

"Nói thế cũng không khác Thôi Bát là bao, lần trước cậu ta nói xấu người ta ở quán rượu, nào ngờ người bị nói xấu lại ở ngay bên cạnh, tức đến nỗi đạp đổ bức bình phong, kết quả cậu ta chuồn mất tiêu." Một tiếng cười trầm ấm của đàn ông vang lên.

"Cái gì cái gì đấy! Rõ ràng là tôi đi trước hắn mới tới!" Một người khác nói rất nhanh, thoạt nghe cũng là giọng đàn ông khá nhẹ nhàng.

"Ồ... bị chê cười rồi." Giọng của Ngu Toàn Cơ từ trong chăn vọng ra.

"Còn muốn chết hả! Mau dậy gặp khách đi!" Thiếu phụ trách móc, Ngu Toàn Cơ mới thò đầu ra, thấy thiếu phụ đó đang ngồi bên sập, bên cạnh tấm bình phong dưới sập có ba tấm đệm, trong đó có hai người đàn ông ngồi ở đấy, một người chưa tới ba mươi tuổi, người kia nhỏ tuổi hơn khoảng hai tư hai lăm tuổi, thiếu phụ đưa tay về phía người lớn tuổi hơn, "Vị này là Hà Đông Liễu Phi Khanh, chắc hẳn cô đã từng nghe thấy tên anh ta."

"Đương nhiên, chính là bạn cùng nghề với nhau mà! Lần trước đi thi hộ tiến sĩ, chúng ta đã gặp mặt nhau rồi nhỉ?" Ngu Toàn Cơ nhìn Liễu Phi Khanh bằng nét mặt dò hỏi, Liễu Phi Khanh đó cũng mỉm cười gật đầu, cô liền nở nụ cười, "Vậy vị này là?"

"Vị này là Thanh Hà Thôi Tương Hà, trong nhà đứng hàng thứ tám, mới hai mươi tư tuổi, như Phi Khanh ban nãy vừa nói, gọi cậu ta là Tiểu Bát cũng được." Thiếu phụ và Liễu Phi Khanh nhìn nhau mà cười, nét mặt Thôi Tương Hà không thoải mái cho lắm, Ngu Toàn Cơ đứng dậy sửa soạn đầu tóc quần áo qua loa rồi xuống giường, thiếu phụ kia nói: "Phi Khanh, Tiểu Bát, đây là Việt Châu Ngu Toàn Cơ vừa nãy tôi nói muốn giới thiệu cho hai vị làm quen, trong nhà đứng hàng thứ hai, gọi cô ấy là Ngu nhị nương tử cũng được."

"Tuy họ Ngu ở Việt Châu, nhưng nhà tôi lại sống ở Nam Lăng, năm năm trước tham gia tuyển chọn phía nam (5) mới đến Việt Châu một lần." Ngu Toàn Cơ nói, đoạn nhận lấy tách trà thiếu phụ đưa uống một hớp, "Cũng chính lần tham gia tuyển chọn phía nam đó gặp Ký Lan trên đường."

"Lúc ấy chúng tôi gặp nhau ngoài quan phủ, sau đó không hiểu sao cô ấy chạy vào Thanh Hư Quán nơi tôi sống, tóm chặt lấy tôi, bắt tôi phải chứa chấp cô ả, làm quán chủ tưởng Lý Ký Lan tôi đổi tính đi gây chuyện với phụ nữ, sau cô ấy nói mình là Ngu Toàn Cơ, tôi bị dọa chết khiếp, Ngu Bát Xoa trong truyền thuyết đây sao? Tôi tưởng Ngu Bát Xoa phải là Văn Khôi Tinh (6) trên trời cơ!" Thiếu phụ tên Lý Ký Lan cười tủm tỉm.

"Văn Khôi Tinh trên trời là giả đấy, phải là ma men dưới đất mới đúng." Ngu Toàn Cơ rầu rĩ uống một hớp trà, nhớ lại con ma bên bờ hồ Khúc Giang, vội vàng nói tiếp, "Ký Lan, viết cho tôi mấy lá bùa đi, e là tôi gặp phải ma quỷ rồi."

"Sao thế?" Liễu Phi Khanh lên tiếng hỏi, anh ta vô cùng hứng thú với mấy chuyện yêu ma quỷ quái, Ngu Toàn Cơ kể lại chuyện mình gặp, anh ta nở nụ cười, "Giữa ban ngày ban mặt, chắc chắn ma quỷ không ra ngoài được, nhất định người đó đang đùa với cô. Kể cả tiếng hát kia nữa, nghe nói cung nhân, ca kĩ vũ nữ đều coi Quận vương và kĩ nữ đó như thần tiên, nghe mấy nhạc công già phường Bình Khang kể, mỗi lần vào đông, họ thường tự mình đến Khúc Giang ca hát diễn tấu để làm vui lòng Quận vương ấy, để sau này được Quận vương che chở nhiều hơn. Bởi vậy tiếng hát đó có thể là của cung nhân."

"Ồ..." Ngu Toàn Cơ thở hắt một hơi.

"Chị Toàn Cơ à, Phi Khanh nói chỉ có đúng chứ không sai bao giờ, chuyện kì lạ huynh ấy gặp nhiều rồi!" Thôi Tiểu Bát đó nhìn và gật đầu với Ngu Toàn Cơ bằng cách rất nghiêm túc.

"Khéo ăn khéo nói ghê, đã gọi chị rồi." Lý Ký Lan liếc nhìn anh ta.

"Tôi coi chị Toàn Cơ như chị gái mình mà! Dù tôi không có chị, nhưng gọi cô ấy là chị cũng thấy vui vui!" Thôi Tiểu Bát lại thở dài buồn bã, Ngu Toàn Cơ nhún vai, dù sao cô không có em trai, được gọi là chị cũng thấy vui!

Liễu Phi Khanh nhéo tai Thôi Tiểu Bát, cười mắng anh ta: "Vậy chúng ta quen biết bao nhiêu năm rồi, sao không thấy cậu gọi tôi là anh trai?"

"Nhìn huynh giống anh trai lắm sao? Xì..." Thôi Tiểu Bát đáp, nở nụ cười giễu cợt rất hợp cảnh.

"Không giống à?" Liễu Phi Khanh càng mạnh tay hơn.

"Hoàn toàn không giống."

"Cậu chắc chứ?"

"Kẻ sĩ có thể chết chứ không thể chịu nhục. Không giống là không giống."

Không lâu sau, kẻ sĩ được mệnh danh không chịu nhục đã ngoan ngoãn gọi một tiếng "anh trai", "chị gái", bị hai người Liễu Lý kéo ra khỏi phòng, Ngu Toàn Cơ đi theo sau. Vì làm quen với bạn mới, nếu không đun ít rượu gạo, ăn mấy con gà để thắt chặt tình cảm thì không phải lẽ trời, nhưng Thái Bình nữ quán là đạo quán do triều đình xây, dù không cấm khách nam nhưng vẫn phải thanh tịnh, Lý Ký Lan không tiện uống rượu vui chơi, bởi vậy mọi người chuyển sang nhà Ngu Toàn Cơ.

Lý Ký Lan ngồi lên con lừa lông nhiều màu, Liễu Phi Khanh cũng cưỡi lừa, hoàn cảnh gia đình nhà Thôi Tiểu Bát khá nhất trong bốn người, cưỡi một con ngựa trắng tráng kiện béo mập anh tuấn, hơn nữa còn đặt cho nó một cái tên rất kêu là Dạ Bạch, gần giống với Sương Hoa của Ngu Toàn Cơ. Bốn người chia thành hai tốp, hai người Thôi Ngu đi trước dẫn đường, hai người Liễu Lý thong thả đi theo sau.

Bốn người ra khỏi phường Đại Nghiệp, dọc theo phố Khải Môn Hạ đi về phía bắc, chạy thẳng đến phường Ngũ Cái, đến cồng phường Thân Nhân thì thấy một đoàn người dài dằng dặc, có nam có nữ, không biết họ đang làm gì.

"Tôi đi xem sao." Thôi Tiểu Bát trẻ tuổi ham vui, không chờ mấy người kia đồng ý đã ra roi thúc ngựa chạy về phía trước, ba người còn lại đành đứng ngoài chờ.

"Ngu Cơ, sao ngựa của cô đi tập tễnh thế?" Liễu Phi Khanh hỏi.

"Móng sắt bị rơi rồi, phải tìm một lò rèn làm bù vào, Liễu huynh có biết thợ rèn nào không?"

"Có, phía tây chợ Đông có một người là An 'mặt rỗ', đừng coi thường ông ta xấu xí, có kinh nghiệm lắm đấy, móng sắt ông ta làm nông sâu phù hợp, vừa chắc chắn vừa không làm thương đến xương cốt của ngựa."

Ba người đang nói chuyện thì Thôi Tiểu Bát quay về, anh ta cất cao giọng nói, "Mọi người đoán xem là chuyện gì?"

"Chuyện gì thế?" Ba người đồng thanh hỏi.

"Hôm nay là ngày nghỉ của Ngự sử đại phu, họ đều là những thí sinh dự thi năm nay đến tiến cử tác phẩm của mình." Thôi Tiểu Bát trả lời.

Ngày nghỉ của quan viên là chín ngày đi làm được nghỉ một ngày, một tháng có ba ngày nghỉ, nhưng Ngu Toàn Cơ không hiểu tiến cử tác phẩm của mình và Ngự sử đại phu thì liên quan gì, bèn hỏi: "Tự tiến cử tác phẩm và Ngự sử đại phu thì liên quan gì?"

"Ơ? Chị không biết sao?" Mắt Thôi Tiểu Bát còn trợn to hơn cả chuông xe ngựa, anh ta nhấn mạnh, "Ngự sử đại phu là quan chủ khảo khóa thi năm nay đấy!"

"Ngự sử đại phu là quan chủ khảo..." Ngu Toàn Cơ lặp lại lời Thôi Tiểu Bát vừa nói.

"Đúng thế! Thánh thượng đích thân phong Lý Thiên Lý làm chủ khảo, đúng là bất ngờ của bất ngờ..." Liễu Phi Khanh nói.

"Lý Thiên Lý?" Ngu Toàn Cơ ngẩng đầu lên nhìn Liễu Phi Khanh, "Lý Thiên Lý?"

"Sao thế? Ngự sử đại phu đương nhiệm họ Lý, tên Thiên Lý, tên chữ Thu Sương."

"Anh ta làm Ngự sử đại phu rồi à..." Ngu Toàn Cơ lẩm bẩm.

"Toàn Cơ, cô quen y à?" Liễu Phi Khanh hỏi.

Ngu Toàn Cơ hoàn hồn, có điều nét mặt vẫn hoang mang, "Cha tôi cũng quen một người tên Lý Thiên Lý, mười mấy năm trước đã từng gặp, chỉ cảm thấy gương mặt người đó rất ngốc, thoạt nhìn là một tiểu quan không có tương lai, chắc không phải là anh ta đâu nhỉ?"

"Nghe nói Ngự sử đại phu này còn thông minh quả quyết hơn cả tướng công tam tỉnh, chưa bao giờ nghe người ta nói y có gương mặt ngốc nghếch..."

Ngu Toàn Cơ buông tay, bĩu môi nói, "Vậy chắc không phải rồi, quan viên họ Lý nhiều lắm, có lẽ cùng họ cùng tên thôi chăng?"

"Ừm..."

Bốn người lại tiến về phía trước, khi đi qua đám đông thì gặp rất nhiều bạn văn quen biết, lúc này trời đã ngả chiều, mắt thấy ba trăm tiếng chiêng sắp vang lên, dòng người tự tiến cử văn thấy không có cơ hội được vào đành phải bỏ cuộc, lục tục lên ngựa lên lừa hoặc đi bộ theo đám Ngu Toàn Cơ về nhà cô.

Nhẩm tính lại, số người tối hôm đó tới uống rượu xấp xỉ bốn mươi người, may mà nhà cô nằm trong phường Bình Khang, gọi rượu đến cũng dễ, một đám kẻ sĩ chơi đố đoán phạt rượu tới tận đêm khuya, đàn ông nằm ngổn ngang trong phòng khách, lấy mấy chiếc chăn to đắp lên như đắp cho xác chết, dù sao cũng không lạnh chết người được. Năm sáu nữ sĩ ngủ trong viện phụ phía tây, Ngu Toàn Cơ cũng say lúy túy, từ đầu đến cuối được vợ chồng Trác thị và Xuân Nương phục vụ, may mà những sĩ tử kia cũng mang theo hầu trai hầu gái nên không đến nỗi luống cuống tay chân.

Ngu Toàn Cơ uống một trận thỏa thích, cười đùa quên gần hết việc xảy ra hôm nay, cho đến lúc ngủ bỗng nhiên nhớ ra một gương mặt mình đã quên từ đời nào, cô lẩm bẩm "Lý Thiên Lý..."

"Nương tử?" Xuân Nương nghĩ rằng Ngu Toàn Cơ muốn nói gì với mình nên mở miệng hỏi.

"Lý Thiên Lý..." Ngu Toàn Cơ ậm ờ lặp lại lần nữa, sau đó quay ra gục đầu ngủ như chết.

(1) Tiến sĩ đoàn进士团: Thời Đường có một nhóm lưu manh được gọi là "tiến sĩ đoàn". "Tiến sĩ đoàn" do những người dân sống lang thang ở Trường An tập hợp lại, sau đó quy mô ngày một lớn. Hàng năm sau mỗi khóa thi và có danh sách trúng tuyển, dựa theo thông lệ thường tổ chức hàng loạt hoạt động chúc mừng như tụ tập tiệc tùng, đề tên bảng vàng, thám hoa chơi bóng... Trong những hoạt động này không thể thiếu kĩ nữ đến trợ hứng. Bởi vậy "Tiến sĩ đoàn" sẽ tự mình tổ chức, giúp các tiến sĩ tân khoa bao trọn tất cả, tất nhiên tiền đều móc từ túi các tiến sĩ tân khoa đó, có tiền mặt thì trả tiền mặt, không có tiền thì ghi nợ, dù sao các tiến sĩ tương lai sẽ trở thành quan viên, không sợ họ không trả. Cho nên không ít các tiến sĩ tân khoa trở thành con nợ của "Tiến sĩ đoàn."

(2) "Thân ngôn thư phán" là nội dung khảo hạch khi chọn quan thời Đường. Sĩ tử thời Đường sau khi tham gia khoa thi ở Lễ Bộ và đỗ đạt, không được nhận quan luôn mà còn buộc phải thông qua kì thi chọn quan của Lại Bộ. Trong đó Thân: là chọn những người có dung mạo đàng hoàng, những người quá xấu sẽ không được chọn, ngoài ra gương mặt tuấn tú thì càng tốt. Ngôn: ứng xử phải khéo léo, trả lời câu hỏi lưu loát, ngoài ra phải phát âm chuẩn, không được lẫn tiếng địa phương, thậm chí giọng địa phương cũng không được. Thư: chính là thư pháp, khi thi thí sinh bắt buộc phải dùng chữ Khải đứng để viết, chữ viết phải đẹp, không được xiêu vẹo, văn tốt mà chữ xấu cũng bị loại. Phán: Bao gồm cả trình độ phán đoán và trình độ viết lách. Bởi vậy thí sinh phải thuộc nằm lòng luật pháp và pháp lệnh lúc bấy giờ để có thể phán đoán và kết án chuẩn xác. Ngoài ra ngôn từ cũng phải đoan chính.

(3) Ngựa Quả Hạ: Giống ngựa lùn nhỏ xuất xứ ở Tây Nam, Trung Quốc, toàn thân có lông, cao khoảng ba thước, dài ba thước bảy (1 thước = 1/3 m), chỉ nặng hơn 50 kg, nhưng có thể kéo hàng hóa có trọng lượng từ 600 – 800 kg.

(4) Ngựa Đại Uyển: hay ngựa Fergana là một ở vùng Trung Á tại vùng (Ferghana) và được lưu truyền trong sử sách của gắn với cuộc chiến Thiên Mã.

(5) Tuyển chọn phía nam (Từ gốc南选, Hán Việt: Nam tuyển), vua Đường Cao Tông tổ chức chế độ tuyển chọn quan lại định kì ở khu vực ngoài kinh thành, phân thành hai miền nam, bắc, gọi là bắc tuyển, nam tuyển.

(6) Văn Khôi Tinh, hay còn gọi là Khôi Tinh Gia, Đại Khôi Phu Tử, Đại Khôi Tinh Quân, là vị thần Thủ Hộ của học trò và người đi thi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co