Chương 25
Vào lúc tám giờ rưỡi sáng hôm sau, trung sĩ Axel Dane bước vào phòng tuyển mộ Jose để tìm viên phụ tá là hạ sĩ Kemp. Hạ sĩ này đang ngủ gà ngủ gật bên cạnh một cậu thiếu niên đang ngồi đợi với vẻ mệt mỏi chán chường. Dane liếc nhìn chàng thiếu niên rồi bước vào sau chấn song đặt tay lên vai hạ sĩ Kemp lên tiếng:
- Này cưng, lũ chim sơn ca đang cất tiếng hát báo tin trời sáng từ lâu rồi mà cưng.
Kemp ngẩng đầu lên khỏi vòng tay gối đầu, đưa lưng bàn tay lên quệt ngang mũi rồi hắt hơi.
- Chà đẹp nhỉ? - Viên trung sĩ nói. - Thức dậy cho rồi chàng! Có một người khách đang đợi kia.
Kemp lim dim cặp mắt đầy ghèn nói:
- Chiến tranh thường đợi người ta mà.
Dane nhìn sát cậu bé và nói:
- Cậu ta đẹp trai quá. Chắc họ sẽ săn sóc cậu ta kĩ. Đứng lên xem thử nào chàng trai trẻ! Cậu ta được mười tám tuổi rồi chứ?
- Thưa vâng.
Dane quay lại chàng hạ sĩ phụ tá hỏi:
- Chú nghĩ sao?
- Kệ mẹ. Theo tôi nếu chúng nó cao lớn là cứ coi như đủ tuổi rồi.
Viên trung sĩ nói:
- Cứ cho rằng cậu đã mười tám tuổi. Chúng tôi chỉ căn cứ vào đó được chứ?
- Thưa vâng.
- Cậu chỉ việc điền vào tờ giấy này. Cậu tưởng tượng mình sinh năm nào thì cứ ghi năm đó vào đúng chỗ này và nhớ cho kĩ năm sinh đó.
Trong ngôi nhà ở đường Castroville Street, bà Kate ngồi lặng nhìn sững vào khoảng không trước mặt hết giờ này qua giờ khác. Nét mặt bà hoàn toàn vô cảm xúc. Bà không suy nghĩ gì cả. Tâm trí bà trôi lơ lửng giữa các cảm xúc như con dơi bay lơ lửng trong đêm. Bà nhớ lại khuôn mặt của cậu con trai tóc hung hung vàng thật đẹp trai và cặp mắt long lên điên dại vì thất vọng sững sờ. Bà còn nghe rõ bên tai những lời lẽ thậm tệ của nó nhằm vào bà thì ít mà nhằm vào chính nó thì nhiều. Bà thấy người em song sinh có nước da hơi sậm đứng tựa cửa cười hinh hích.
Tại sao Cal lại đem anh nó tới làm gì? Sau đó Aron sẽ ra sao? Nếu biết trước bà đã tránh mặt rồi. Nhưng làm sao bà biết được!
Bà đặt hai tay nằm xuôi trên mặt bàn và để ý sao cho các ngón cong queo vì bị chứng sưng khớp xương được thoải mái. Bà hồi tưởng lại đoạn đời quá khứ với sự việc khó hiểu đột hiện rồi biến ngay. Chỉ sau khi gặp mặt được cậu con trai tóc vàng, đoạn đời đó mới tái hiện lần đầu tiên trong trí bà. Nét mặt đau đớn, cuồng dại, tuyệt vọng của nó đã gợi lại cho bà chuyện đó. Bà chợt nhớ rõ.
Ngày đó bà hãy còn là một cô bé gái. Bà nhớ rằng thuở đó mình đẹp và thông minh hơn tất cả những đứa con gái khác. Nhưng thỉnh thoảng một cơn sợ hãi không rõ từ đâu xâm chiếm lấy nàng như bị một nhóm kẻ thù cao lớn khổng lồ như cây rừng vây chặt đến không còn chỗ nào lánh mặt. Nàng muốn gào khóc điên lo không nơi ẩn náu. Rồi một hôm nàng đọc được một cuốn sách. Đó là cuốn "Nàng Alice lạc vào tiên cảnh".
Bà còn nhớ rõ những tấm hình minh họa. Nàng Alice với mái tóc dài thẳng mướt. Nhưng chính vì chai nước mang nhãn hiệu "Hãy uống tôi" đã thay đổi cả cuộc đời nàng. Alice đã dạy bà điều đó. Khi lũ thù nghịch như rừng cây cao đó vây hãm quanh nàng, nàng đã chuẩn bị sẵn. Trong túi áo nàng thủ sẵn một chai nước đường dán nhãn "Hãy uống tôi". Nàng sẽ uống một ngụm nước trong chai và sẽ thu người nhỏ lại đến nỗi nàng có thể ẩn mình dưới một chiếc lá hay nấp trong một hang kiến. Vậy thì tuyệt quá. Cathy đã làm hơn như vậy. Nàng đã uống trọn cả chai nước màu nhiệm đó nên nàng thu nhỏ lại đến độ biến mất. Khi đã biến hình nàng không còn bao giờ trở lại được như xưa nữa. Nàng đã tìm được sự an toàn theo lối đó.
Bà Kate buồn bã lắc đầu khi nhớ lại điều đó. Hai bàn tay bị chứng sưng khớp xương của bà lại cuồn cuộn đau nhức và còn thêm một chỗ đau nữa. Mông bên phải của bà nhức nhối dữ dội mỗi khi bà cử động. Bà gục đầu xuống miếng giấy thấm lớn giữa hai bàn tay co quắp. Bà cảm thấy lạnh lùng, cô độc hết sức. Kẻ thù đông đảo như rừng cây như đang vây chặt quanh bà. Họ đã biết được những gì? Những gì bà đã làm đều bị xô đẩy bởi bàn tay vô hình. Có một cái gì ở bà khác với những người khác. Bà ngẩng đầu lên nhưng không buồn lau cặp mắt đẫm lệ của mình. Sự thật đúng như vậy. Bà khôn ngoan và mạnh bạo hơn những người khác. Bà có vài đặc tính mà những người khác không có.
Giữa những ý nghĩ của bà, khuôn mặt hơi sậm của Cal lơ lửng giữa không trung ngay trước mặt bà, đôi môi của nó đang nở một nụ cười cay độc. Một khối nặng như đè lên người bà, làm bà muốn nghẹn thở, những lời mà có lần bà nghe đã ứng nghiệm. Bà không có được những cái mà người khác có. Nhưng bà không biết đó là cái gì. Một khi đã chấp nhận điều này, bà đã sẵn sàng như đã có lần sẵn sàng. Bà biết mình đã sẵn sàng từ lâu.
Bà Kate đứng dậy bước tới bàn giấy của mình. Với bàn tay đau nhức bà ráng viết mấy chữ: "Tôi để lại tất cả gia tài của cải của tôi cho con trai tôi là Aron Trask." Bà ghi ngày tháng vào tờ giấy và kí tên: "Catherine Trask." Bà dừng tay trên tờ giấy giây lát rồi đứng dậy, để tờ di chúc nằm ngửa trên mặt bàn.
Trên bàn còn có một ít nước trà nguội trong bình. Trí óc bà đặc quánh như một khối gỗ. Cơ thể bà như một hình nhân tồi tệ. Bà rót một tách nước bưng lại ghế dựa. Bà sửa mấy chiếc gối nệm lại, ngồi xuống và tựa đầu và chiếc gối đệm cẩn thận. Bà cảm thấy khoan khoái như sắp đi dự một cuộc tiệc. Bà thận trọng kéo sợi giây chuyền trong ngực áo ra, mở nắp cái ống nhỏ đổ viên thuốc trong tay lắc qua lắc lại.
- "Hãy ăn tôi." Bà lẩm bẩm nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Bà nâng tách nước trà lên môi nói thêm "Hãy uống tôi." Rồi nốc cạn tách nước.
Bà cố tập trung tinh thần nghĩ đến nàng Alice trong cuốn sách nọ, đang thu người nhỏ xíu lại và chờ đợi. Những khuôn mặt khác hiện ra: Cha, mẹ mình, Charles, Adam, ông Samnel Hamilton, rồi đến Aron và bà cũng thấy cả Cal đang mỉm cười nhìn bà. Trong ánh mắt của nó như ngầm nói: "Bà đã thiếu mất nhiều thứ mà người khác có."
Tay chân bà bắt đầu rần rần cảm giác tê liệt, ấm áp. Căn phòng sầm tối lại, ánh đèn lung linh tan loãng như nước lỏng. Hai mắt bà nhắm kín lại. Hơi thở yếu dần. Bà có cảm giác mình mỗi lúc một thu nhỏ dần rồi cuối cùng tan biến vào hư vô.
Trưa hôm sau, cảnh sát trưởng Horace Quinn từ lộ Main Street rẽ qua đại lộ Central Avenue. Ông ghé mua một ổ bánh mì Pháp còn nóng và thơm mùi bột nhồi men hấp dẫn tại lò bánh mì Reynand.
Ông phải vịn vào lan can để bước lên các bậc cấp nhà ông Trask. Chú Lee ra mở cửa, quanh bụng chú đang quấn một tấm khăn dùng trong khi rửa chén đĩa. Chú nói:
- Ông ấy không có ở nhà.
- Được. Chắc ông ấy đang trên đường về. Tôi đã gọi tới phòng động viên và sẽ đợi ở đây.
Chú Lee nép qua một bên tránh đường cho ông Quinn vào. Chú mời ông ta vào ngồi đợi ở phòng khách. Ông Quinn nhìn quanh căn phòng đủ tiện nghi. Sau bao nhiêu năm qua, ông vẫn không thích công việc của mình. Ông nhớ mình có nghe một vị bác sĩ nói rằng: "Tôi thích công việc giúp cho một em bé ra đời, và khi công việc hoàn tất mĩ mãn, tôi thấy rất vui thỏa." Ông cảnh sát trưởng thường nghĩ đến ghi nhận đó.
Đối với ông lại khác, mỗi khi tận tâm làm xong một công việc thì hình như rằng làm gì cũng đem lại một mỗi buồn khổ cho một người nào đó.
Horace Quinn nhớ rằng mình đã hỏi chuyện ông Adam một lần cách đây lâu lắm rồi và còn nhớ ông ta dạo đó rầu rĩ tuyệt vọng như người đang hấp hối. Dạo đó ông xem ông Adam quá thật thà nên không gạn hỏi gì nhiều. Những năm về sau ông có dịp gặp ông Adam nhiều hơn. Cả hai đều có chân trong hội Masonic Order.
Trong khi chờ đợi, Horace nghĩ tiếp rằng, ông Adam không thể làm điều gì xấu vì ông ta không thiết tha với cái gì cả. Phải những người thật ham danh lợi mới có thể làm những điều bất chánh được.
Ông nghe tiếng chân ông Adam về ngoài cổng trước. Chú Lee cũng nghe nên vội bước ra. Chú báo cho chủ biết: "Có ông cảnh sát trưởng đang đợi trong nhà", rồi đi xuống bếp tiếp tục rửa chén đĩa khua rổn rảng.
Ông Adam bước vào tươi cười bắt tay khách:
- Chào anh Horace. Có chuyện gì trục trặc hả?
- Nghề của tôi thì luôn luôn có chuyện trục trặc rồi. À, anh Adam, người đàn bà dạo đó vẫn còn là vợ anh chứ?
Ông Adam ngượng ngùng đáp:
- Vâng, mà có chuyện gì vậy?
- Bà ấy tự vẫn chết hồi hôm.
Nét mặt ông Adam nhăn lại. Hai mắt ông như phồng lên và ngấn lệ. Ông cố giữ cho miệng mình đừng mếu nhưng thất bại, ông úp mặt vào hai bàn tay rấm rứt khóc và nghẹn ngào thốt lên: "Ôi, người vợ đáng thương của anh!"
Ông Quinn ngồi im lặng để mặc cho ông Adam bộc lộ hết xúc cảm của mình. Một lát sau, ông Adam ngẩng đầu lên nói:
- Xin lỗi anh Horace nhé!
Chú Lee từ dưới nhà bếp đi lên, trao chiếc khăn mặt ẩm ướt vào tay ông Adam. Ông cầm lên chậm nước mắt rồi trao lại cho chú Lee.
Với nét mặt hổ thẹn, ông Adam nói:
- Tôi không ngờ xảy ra chuyện đó. Tôi biết tính sao bây giờ? Tôi sẽ lãnh việc chôn cất nàng được chứ?
- Không, - ông Horace nói. - Trừ khi ông muốn tình nguyện nhận lãnh, chứ tôi đến đây không với mục đích đó.
Ông rút trong túi một tờ giấy đã xếp cẩn thận chìa ra:
- Bà ấy viết di chúc để lại tất cả gia tài của bà cho Aron, con trai anh.
Ông Adam đọc mấy hàng chữ và tiếp tục nhìn sững vào tờ giấy như muốn nhìn xuyên qua bên kia và nói:
- Nó không hề biết... bà ấy là mẹ nó.
- Anh không nói cho nó biết sao?
- Không.
- Trời ơi! - Ông cảnh sát trưởng kêu lên.
Ông Adam nói bằng giọng thật đứng đắn:
- Tôi tin rằng nó không muốn nhận thứ gì của bà ấy đâu. Chúng ta nên xé bỏ tờ di chúc này và xem như không hề có thì hơn.
- Tôi e rằng không được. - Ông Quinn nói. - Bà ấy có gửi nữ trang ở ngân hàng. Tôi cũng đã tới ngân hàng. Khỏi cần đợi lệnh tòa án. Xem như không dính dáng gì cả.
Ông không nói với ông Adam về việc ông nghĩ có thể còn có nhiều hình ảnh và sổ ghi địa chỉ giống với loại mà ông đã tìm thấy tại bàn giấy của bà Kate và đã bí mật thiêu hủy hết.
- À. Cụ Bob đã cho phép tôi mở chiếc hộp đó ra. Có trên một trăm ngàn Mĩ kim dưới hình thức những tờ chứng chỉ có thể đổi thành vàng. Số tiền đã bó sẵn thành từng bó, ngoài ra còn có một cuốn giấy khác. Đó là tờ chứng thư hôn thú.
Ông Adam dựa ngửa trên ghế. Vẻ hững hờ xa vắng lại tái hiện trên nét mặt của ông, đó là dấu hiệu tách biệt ông với thế giới chung quanh. Ông hỏi:
- Theo anh nghĩ thì tôi phải làm gì bây giờ?
Cảnh sát trưởng Quinn nói:
- Tôi chỉ có thể nói với anh những gì tôi phải làm. Tôi cần gặp cậu con ông ngay bây giờ. Tôi phải nói tất cả cho nó biết. À, nó bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Mười bảy.
- Nó đã trưởng thành. Sẽ có lúc nó dùng đến số tiền đó.
- Tôi không hiểu tại sao bà ấy lại lập di chúc cho Aron?
- Có trời mà hiểu bà ấy.
- Vâng. Tôi sẽ làm những gì anh bảo. Anh còn ngồi lại với tôi một lát nữa chứ?
- Dĩ nhiên là phải vậy.
- Chú Lee ơi! - Ông Adam gọi. - Bảo Aron lên đây tôi cần gặp nó ngay. Nó đã về nhà rồi chứ?
Chú Lee bước lên ngưỡng cửa. Cặp môi của chú nặng nề mím chặt giây lát rồi mới mở ra được:
- Dạ chưa.
- Còn Cal đâu?
- Cậu ấy đang ở trong phòng. - Chú Lee trả lời.
- Được rồi. Gọi nó lên đây. Nó hiểu chuyện này được.
Nét mặt Cal lại đầy vẻ mệt mỏi, hai vai xệ xuống một cách kiệt lực. Ông Adam hỏi:
- Con có biết Aron đâu không?
- Dạ không. Con không biết. - Cal đáp.
- Sáng nay nó không có mặt trong bữa điểm tâm. Vậy nó đi đâu?
- Làm sao con biết được? Con đâu phải là người theo giữ anh con?[1]
[1] Câu này tương tự lời của Ca-in trả lời Đức Chúa Trời khi Ngài hỏi về Abel mà Ngài biết rõ đã bị Ca-in giết chết vì lòng ganh tị. Ca-in và Abel là con trai của ông Adam và bà Eva trong sách Sáng Thế Kí của Thánh Kinh. Có lẽ J. Steinbeck cố ý so sánh với hai anh em đó trong Thánh Kinh. (chú thích của dịch giả)
Ông Adam cúi gầm mặt xuống. Trong mắt ông một tia sáng xanh lóe lên một cách kì lạ. Ông gượng gạo nói:
- Có lẽ nó đã trở lại trường đại học.
Đôi mắt ông có vẻ nặng nề và ông nghĩ thầm như trong chiêm bao:
- Con có nghĩ rằng Aron đã trở lại trường đại học không?
Cảnh sát trưởng Quinn đứng lên nói:
- Những việc gì cần làm tôi sẽ làm sau. Anh đang bị xúc đông mạnh, cần nghỉ ngơi cho khỏe nghe Adam.
Ông Adam ngẩng mặt nhìn lên nói:
- Xúc động mạnh. Ồ, đúng vậy. Cảm ơn Geeorge. Cảm ơn anh rất nhiều.
- Sao anh gọi là George?
-Cảm ơn anh rất nhiều. - Ông Adam lặp lại.
Khi viên cảnh sát trưởng đã ra khỏi nhà, Cal trở về phòng riêng. Cậu ta ngồi ở bàn giấy chống cùi chỏ lên bàn, hai tay ôm ghì cái đầu đang đau nhức của mình. Đến nhà bà Kate đã không mang lại cho cậu chút an ủi nào vì hành động trả thù của cậu không đem lại một thắng lợi nào. Ra khỏi nhà bà Kate cậu đã chạm phải phản ứng của người anh đang nức nở khóc và Aron đã đấm cậu một cú như búa tạ làm cậu ngã nhào. Aron đã đứng trên người cậu trong bóng tối. Nhưng đột nhiên anh quay mặt vừa bỏ chạy vừa khóc như một cậu bé đau khổ.
Hôm thứ sáu, Cal đã đi lang thang suốt ngày. Tối hôm đó cậu ta nhờ người quen ở một sòng bài mua giùm một phần tư chai rượu whisky vì cậu ta còn vị thành niên không được phép mua.
Cal tới con hẻm phía sau nhà của Abbott ngồi tréo ngoải giữa đất, dù bị phản ứng mãnh liệt và nôn mửa, cậu ta cũng nốc hết số lượng rượu trên cho đến khi trời đất quay cuồng và đèn đường biến thành muôn ngàn sợi ánh sáng kì ảo. Đến rạng đông sương muối thấm lạnh làm Cal tỉnh dậy với một tâm trạng ê chề. Cậu ta lê bước về nhà như một con bọ tơi tả.
Sáng hôm sau, Cal đã phải tắm bằng nước đá và chà xát cơ thể bằng một cục đá bọt. Sự đau đớn khi chà xát bằng cục đá bọt lên da thịt lại khiến cho cậu thấy dễ chịu.
Biết rằng mình phải thú nhận tội lỗi của mình với cha và khẩn nài sự tha thứ của ông. Tuy vậy khi được gọi ra đứng giữa phòng trước mặt cảnh sát trưởng Horace Quinn và cha mình, cậu ta đâm ngoan cố ương ngạnh như một con chó cứng đầu và nỗi ghê tởm chính mình đã ngược ra chĩa vào mọi người chung quanh.
Sau đó cậu ta trở về phòng riêng. Tội lỗi mà cậu đã gây nên lại giày vò cậu dữ dội không cách nào tự cứu gỡ được.
Nghĩ đến phản ứng cuồng bạo của Aron, cậu ta muốn điên đầu. Cal biết rằng mình phải kéo Aron trở về dù có phải hi sinh chính mình đi nữa. Ý tưởng hi sinh xâm chiếm lấy cậu ta chẳng khác nào những người mang mặc cảm phạm tội thường có.
Cal bước tới bàn riêng của mình lấy gói dưới chồng khăn tay trong ngăn bàn ra. Cậu nhìn quanh phòng, lấy cái khay bằng sứ đựng ghim lại đặt lên bàn mình. Cậu ta cầm một tờ giấy bạc đưa ngay lên chính giữa chiếc khay và gấp lại thành một cái góc rồi quẹt một que diêm châm vào. Xong cậu ta bóc một tờ giấy bạc kế tiếp châm đốt.
Khi sáu tờ giấy bạc như vậy đã bị đốt cháy, chú Lee gõ cửa bước xộc vào nói:
- Tôi ngửi có mùi khét nên vào thử có gì lạ không.
Chợt thấy Cal đang làm chú kinh ngạc kêu lên:
- Ồ!
Cal vòng cánh tay che lại sợ bị ngăn cản nhưng không có gì xảy ra. Chú Lee khoanh tay lặng lẽ đứng nhìn. Cal điên cuồng đốt hết tờ giấy bạc này đến tờ giấy bạc kia cho đến khi tất cả đã cháy tiêu hết, xong cậu lấy miếng gỗ đen nhỏ đậy lên mớ tro chờ chú Lee quở trách, nhưng chú không nói gì cũng không cử động. Cuối cùng Cal lên tiếng:
- Nào, chú định nói gì tôi xin chú cứ việc nói, tôi sẵn sàng nghe, chú hãy nói đi.
- Không. Tôi không muốn nói gì hết. Nếu cậu không có gì muốn tâm sự với tôi thì tôi ngồi lại chơi một lát rồi đi ra thôi.
Chú ngồi xuống một chiếc ghế dựa, khoanh tay trước ngực chờ đợi.
Cal xoay mặt khỏi chú và nói:
- Tôi sẽ ngồi lì lâu hơn chú.
- Để thi đua chơi thì được. Nhưng nếu kéo dài từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm nọ thì ai biết được? Bộ có thể ngồi từ thế kỉ này qua thế kỉ kia sao? Không đâu Cal, cậu sẽ thua.
Một lát sau Cal cau có nói:
- Chú cứ tiếp tục thuyết giảng nữa đi.
- Tôi chẳng thuyết giảng gì cả.
- Vậy chú đinh nói gì nữa? Chú biết tôi vừa làm gì rồi và hồi hôm tôi đã uống rượu say mèm.
- Chuyện thứ nhất thì tôi đã ngờ trước, còn chuyện thứ hai thì tôi có thể ngửi thấy.
- Thật tâm tôi không thích như vậy. Tôi e rằng nếu tôi không say có lẽ tôi đã bắn vào đầu mà chết rồi.
- Cậu không nên làm như vậy. À này, Aron đi đâu?
- Anh ấy đã bỏ đi. Tôi không biết ảnh đi đâu?
- Cậu ấy không đến nỗi hèn. - Chú Lee hoang mang nói.
- Tôi biết và tôi cũng không nghĩ như vậy. Chú cũng nghĩ rằng anh ấy không làm bậy chứ?
Chú Lee hơi cáu nói:
- Một người khi muốn tự trấn an mình về một vấn đề gì thường cố lôi kéo một người bạn tin theo những gì người đó muốn cho là thật. Chẳng khác nào ta hỏi một anh bồi nhà hàng tối nay có món gì ngon không? Làm sao tôi có thể trả lời câu hỏi của cậu được?
Cal gào lên:
- Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy? Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy?
- Đừng có biến sự việc thành phức tạp. Cậu phải biết rõ tại sao mình đã hành động như vậy. Cậu đã ganh ghét Aron vì cha cậu đã làm thương tổn tự ái của cậu. Chuyện đó không có gì khó hiểu. Cậu phải nhận rằng mình hèn.
- Chính tôi cũng thắc mắc tại sao tôi lại hèn như vậy. Chú Lee, tôi không muốn làm thằng hèn. Chú làm ơn giúp tôi với.
- Đợi tôi một chút. - Chú Lee nói. - Hình như ba cậu đang gọi tôi.
Chú chạy ra khỏi phòng. Cal nghe tiếng hai người nói chuyện với nhau léo xéo một lát rồi chú Lee trở lại nói:
- Ông ấy sắp ra nhà bưu điện. Này Cal, tôi không thích cái nhìn của cha cậu chút nào. Cái nhìn của ông sững sờ thế nào ấy. Cal, tôi tưởng cần cho cậu biết: Mẹ cậu tự vẫn chết hồi hôm.
Cal hỏi:
- Thật vậy sao? Rồi cậu ta lẩm bẩm "Chắc bà bị tổn thương." Không. Tôi không muốn nói như vậy. Tôi không muốn nghĩ như vậy. Thì ra chuyện đó đã xảy ra. Tôi không muốn sự việc xảy ra như vậy.
Chú Lee gãi một chỗ ngứa trên đầu và nói:
- Việc đốt mớ tiền chắc làm cậu thấy khoái lắm phải không?
- Vâng, có lẽ vậy.
- Tự hành hạ mình như vậy cậu thấy khoái chứ? Nỗi thất vọng đã làm cho cậu thích thú lắm không?
- Kìa chú Lee! Chú hỏi gì lạ vậy?
- Vậy là cậu khá thoea mãn rồi. Cậu đang thưởng thức tình cảm bi thảm của chính cậu, một Caleb Trask độc đáo. Có bao giờ cậu nghĩ rằng mình là một thằng con trai kì cục, lúc thì bần tiện, lúc thì quảng đại một cách khó tin? Cậu đang kết hợp danh dự và bi thảm lại với nhau trong đầu vì cớ mẹ cậu phải không? Và nếu có việc gì xảy ra cho anh cậu, cậu có tìm cớ chạy tội giết người của cậu không?
Cal chậm chạp quay trở lại bàn riêng của mình. Chú Lee để ý nhìn theo như một bác sĩ đang quan sát từng phản ứng của một bệnh nhân. Rồi chú thở dài dịu giọng nói:
- Này Cal, người Mỹ chúng ta là một giống dân cứng cỏi. Chắc cậu lấy làm lạ tại sao tôi lại gộp cả mình trong đó? Có lẽ chúng ta đều là con cháu của những đám người hiếu động, phạm pháp, ồn ào nhưng cũng can đảm, tự lập và quảng đại. Nếu tổ tiên chúng ta không là những người như vậy thì họ đã ở yên tại quê hương chịu đói khổ trên mảnh đất cằn cũ kĩ.
Cal quay đầu lại nhìn chú, nét mặt đã mất hẳn vẻ căng thẳng. Chú Lee biết rằng mình đã không đến nỗi làm cho cậu con trai này điên đầu. Cal chịu nghe vì thấy rằng những lời chú Lee thẳng thắn và thành thật.
Chú Lee nói tiếp:
- Vì lý do đó mà tôi đã gộp cả tôi trong đó. Chúng ta đều thừa hưởng những đặc tính đó và không giữ được bao nhiêu từ quê hương cũ. Vì thế chúng ta can đảm cũng hơi quá và sợ hãi cũng hơi quá, chúng ta vừa dễ tính vừa hung bạo như trẻ con. Chúng ta vừa tự phụ vừa dễ cảm kích. Chúng ta vừa giàu tình cảm lại vừa thực tế... Chúng ta là những người vụ thực tế... Chúng ta thường phung phí năng lực một cách vô ích. Đó, tất cả chúng ta đều như vậy cả. Cậu cũng không khác gì.
Cal mỉm cười nói:
- Chú cứ nói nữa đi. Nói nữa đi!
- Tôi không cần nói gì thêm nữa. Tôi sẽ chấm dứt ngang đây. Tôi mong ba cậu về sớm. Tôi hơi lo cho ông ấy.
Chú lo lắng bước ra khỏi phòng. Ra tới cửa trước chú gặp ngay ông Adam đang đứng dựa tường, chiếc nón sụp xuống ngang mắt.
- Ông Adam, có chuyện gì vậy?
- Tôi cũng không biết nữa. Chỉ thấy mệt. Mệt...
Chú Lee cầm ngang cánh tay ông dìu lần ông vào tận phòng khách. Ông nặng nề ngồi phịch xuống ghế. Chú Lee giở nón ra khỏi đầu cho ông. Ông Adam chà lưng bàn tay trái vào lòng bàn tay phải. Cặp mắt ông thật kì lạ, sáng quắc nhưng bất động. Ông nói như người mộng du, chậm rãi và như vọng lại từ xa. Ông vừa xoa tay thật nhanh vừa nói:
- Lạ thật. Tôi đã khuỵu người trong nhà bưu điện. Ông Pioda đã phải giúp tôi.
- Có lá thư nào không? - Lee hỏi.
- Có. Hình như có.
Ông thò tay trái vào túi giây lát rồi rút ra nói như tạ lỗi:
- Bàn tay của tôi sao tê cứng quá! - Ông lại thò tay phải vào móc ra một tấm danh thiếp màu vàng của chính phủ.
- Hình như tôi đọc rồi. Nhưng bây giờ tôi phải đọc lại một lần nữa.
Ông đưa tấm thiệp lên trước mắt rồi buông xuống giữa đùi:
- Chú Lee, tôi cần phải có cặp kiếng mới được, dù chưa bao giờ dùng tới nó. Tôi không đọc nổi nữa. Những dòng chữ cứ nhảy múa loạn cả lên.
- Để tôi đọc cho nhé?
- Buồn cười thật. À, làm gì tôi cũng phải có một cặp kiếng mới được. Được rồi. Trong đó nói gì vậy?
Chú Lee đọc: "Thưa ba, con đã tình nguyện vào quân đội. Con khai con đã đủ mười tám tuổi. Con vẫn thường. Đừng lo nghĩ gì về con. Aron."
- Buồn cười thật. - Ông Adam nói. - Hình như tôi đã đọc rồi nhưng tôi cứ tưởng như chưa đọc.
Ông ta lại xoa hai bàn tay vào nhau.
- Này cưng, lũ chim sơn ca đang cất tiếng hát báo tin trời sáng từ lâu rồi mà cưng.
Kemp ngẩng đầu lên khỏi vòng tay gối đầu, đưa lưng bàn tay lên quệt ngang mũi rồi hắt hơi.
- Chà đẹp nhỉ? - Viên trung sĩ nói. - Thức dậy cho rồi chàng! Có một người khách đang đợi kia.
Kemp lim dim cặp mắt đầy ghèn nói:
- Chiến tranh thường đợi người ta mà.
Dane nhìn sát cậu bé và nói:
- Cậu ta đẹp trai quá. Chắc họ sẽ săn sóc cậu ta kĩ. Đứng lên xem thử nào chàng trai trẻ! Cậu ta được mười tám tuổi rồi chứ?
- Thưa vâng.
Dane quay lại chàng hạ sĩ phụ tá hỏi:
- Chú nghĩ sao?
- Kệ mẹ. Theo tôi nếu chúng nó cao lớn là cứ coi như đủ tuổi rồi.
Viên trung sĩ nói:
- Cứ cho rằng cậu đã mười tám tuổi. Chúng tôi chỉ căn cứ vào đó được chứ?
- Thưa vâng.
- Cậu chỉ việc điền vào tờ giấy này. Cậu tưởng tượng mình sinh năm nào thì cứ ghi năm đó vào đúng chỗ này và nhớ cho kĩ năm sinh đó.
Trong ngôi nhà ở đường Castroville Street, bà Kate ngồi lặng nhìn sững vào khoảng không trước mặt hết giờ này qua giờ khác. Nét mặt bà hoàn toàn vô cảm xúc. Bà không suy nghĩ gì cả. Tâm trí bà trôi lơ lửng giữa các cảm xúc như con dơi bay lơ lửng trong đêm. Bà nhớ lại khuôn mặt của cậu con trai tóc hung hung vàng thật đẹp trai và cặp mắt long lên điên dại vì thất vọng sững sờ. Bà còn nghe rõ bên tai những lời lẽ thậm tệ của nó nhằm vào bà thì ít mà nhằm vào chính nó thì nhiều. Bà thấy người em song sinh có nước da hơi sậm đứng tựa cửa cười hinh hích.
Tại sao Cal lại đem anh nó tới làm gì? Sau đó Aron sẽ ra sao? Nếu biết trước bà đã tránh mặt rồi. Nhưng làm sao bà biết được!
Bà đặt hai tay nằm xuôi trên mặt bàn và để ý sao cho các ngón cong queo vì bị chứng sưng khớp xương được thoải mái. Bà hồi tưởng lại đoạn đời quá khứ với sự việc khó hiểu đột hiện rồi biến ngay. Chỉ sau khi gặp mặt được cậu con trai tóc vàng, đoạn đời đó mới tái hiện lần đầu tiên trong trí bà. Nét mặt đau đớn, cuồng dại, tuyệt vọng của nó đã gợi lại cho bà chuyện đó. Bà chợt nhớ rõ.
Ngày đó bà hãy còn là một cô bé gái. Bà nhớ rằng thuở đó mình đẹp và thông minh hơn tất cả những đứa con gái khác. Nhưng thỉnh thoảng một cơn sợ hãi không rõ từ đâu xâm chiếm lấy nàng như bị một nhóm kẻ thù cao lớn khổng lồ như cây rừng vây chặt đến không còn chỗ nào lánh mặt. Nàng muốn gào khóc điên lo không nơi ẩn náu. Rồi một hôm nàng đọc được một cuốn sách. Đó là cuốn "Nàng Alice lạc vào tiên cảnh".
Bà còn nhớ rõ những tấm hình minh họa. Nàng Alice với mái tóc dài thẳng mướt. Nhưng chính vì chai nước mang nhãn hiệu "Hãy uống tôi" đã thay đổi cả cuộc đời nàng. Alice đã dạy bà điều đó. Khi lũ thù nghịch như rừng cây cao đó vây hãm quanh nàng, nàng đã chuẩn bị sẵn. Trong túi áo nàng thủ sẵn một chai nước đường dán nhãn "Hãy uống tôi". Nàng sẽ uống một ngụm nước trong chai và sẽ thu người nhỏ lại đến nỗi nàng có thể ẩn mình dưới một chiếc lá hay nấp trong một hang kiến. Vậy thì tuyệt quá. Cathy đã làm hơn như vậy. Nàng đã uống trọn cả chai nước màu nhiệm đó nên nàng thu nhỏ lại đến độ biến mất. Khi đã biến hình nàng không còn bao giờ trở lại được như xưa nữa. Nàng đã tìm được sự an toàn theo lối đó.
Bà Kate buồn bã lắc đầu khi nhớ lại điều đó. Hai bàn tay bị chứng sưng khớp xương của bà lại cuồn cuộn đau nhức và còn thêm một chỗ đau nữa. Mông bên phải của bà nhức nhối dữ dội mỗi khi bà cử động. Bà gục đầu xuống miếng giấy thấm lớn giữa hai bàn tay co quắp. Bà cảm thấy lạnh lùng, cô độc hết sức. Kẻ thù đông đảo như rừng cây như đang vây chặt quanh bà. Họ đã biết được những gì? Những gì bà đã làm đều bị xô đẩy bởi bàn tay vô hình. Có một cái gì ở bà khác với những người khác. Bà ngẩng đầu lên nhưng không buồn lau cặp mắt đẫm lệ của mình. Sự thật đúng như vậy. Bà khôn ngoan và mạnh bạo hơn những người khác. Bà có vài đặc tính mà những người khác không có.
Giữa những ý nghĩ của bà, khuôn mặt hơi sậm của Cal lơ lửng giữa không trung ngay trước mặt bà, đôi môi của nó đang nở một nụ cười cay độc. Một khối nặng như đè lên người bà, làm bà muốn nghẹn thở, những lời mà có lần bà nghe đã ứng nghiệm. Bà không có được những cái mà người khác có. Nhưng bà không biết đó là cái gì. Một khi đã chấp nhận điều này, bà đã sẵn sàng như đã có lần sẵn sàng. Bà biết mình đã sẵn sàng từ lâu.
Bà Kate đứng dậy bước tới bàn giấy của mình. Với bàn tay đau nhức bà ráng viết mấy chữ: "Tôi để lại tất cả gia tài của cải của tôi cho con trai tôi là Aron Trask." Bà ghi ngày tháng vào tờ giấy và kí tên: "Catherine Trask." Bà dừng tay trên tờ giấy giây lát rồi đứng dậy, để tờ di chúc nằm ngửa trên mặt bàn.
Trên bàn còn có một ít nước trà nguội trong bình. Trí óc bà đặc quánh như một khối gỗ. Cơ thể bà như một hình nhân tồi tệ. Bà rót một tách nước bưng lại ghế dựa. Bà sửa mấy chiếc gối nệm lại, ngồi xuống và tựa đầu và chiếc gối đệm cẩn thận. Bà cảm thấy khoan khoái như sắp đi dự một cuộc tiệc. Bà thận trọng kéo sợi giây chuyền trong ngực áo ra, mở nắp cái ống nhỏ đổ viên thuốc trong tay lắc qua lắc lại.
- "Hãy ăn tôi." Bà lẩm bẩm nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Bà nâng tách nước trà lên môi nói thêm "Hãy uống tôi." Rồi nốc cạn tách nước.
Bà cố tập trung tinh thần nghĩ đến nàng Alice trong cuốn sách nọ, đang thu người nhỏ xíu lại và chờ đợi. Những khuôn mặt khác hiện ra: Cha, mẹ mình, Charles, Adam, ông Samnel Hamilton, rồi đến Aron và bà cũng thấy cả Cal đang mỉm cười nhìn bà. Trong ánh mắt của nó như ngầm nói: "Bà đã thiếu mất nhiều thứ mà người khác có."
Tay chân bà bắt đầu rần rần cảm giác tê liệt, ấm áp. Căn phòng sầm tối lại, ánh đèn lung linh tan loãng như nước lỏng. Hai mắt bà nhắm kín lại. Hơi thở yếu dần. Bà có cảm giác mình mỗi lúc một thu nhỏ dần rồi cuối cùng tan biến vào hư vô.
Trưa hôm sau, cảnh sát trưởng Horace Quinn từ lộ Main Street rẽ qua đại lộ Central Avenue. Ông ghé mua một ổ bánh mì Pháp còn nóng và thơm mùi bột nhồi men hấp dẫn tại lò bánh mì Reynand.
Ông phải vịn vào lan can để bước lên các bậc cấp nhà ông Trask. Chú Lee ra mở cửa, quanh bụng chú đang quấn một tấm khăn dùng trong khi rửa chén đĩa. Chú nói:
- Ông ấy không có ở nhà.
- Được. Chắc ông ấy đang trên đường về. Tôi đã gọi tới phòng động viên và sẽ đợi ở đây.
Chú Lee nép qua một bên tránh đường cho ông Quinn vào. Chú mời ông ta vào ngồi đợi ở phòng khách. Ông Quinn nhìn quanh căn phòng đủ tiện nghi. Sau bao nhiêu năm qua, ông vẫn không thích công việc của mình. Ông nhớ mình có nghe một vị bác sĩ nói rằng: "Tôi thích công việc giúp cho một em bé ra đời, và khi công việc hoàn tất mĩ mãn, tôi thấy rất vui thỏa." Ông cảnh sát trưởng thường nghĩ đến ghi nhận đó.
Đối với ông lại khác, mỗi khi tận tâm làm xong một công việc thì hình như rằng làm gì cũng đem lại một mỗi buồn khổ cho một người nào đó.
Horace Quinn nhớ rằng mình đã hỏi chuyện ông Adam một lần cách đây lâu lắm rồi và còn nhớ ông ta dạo đó rầu rĩ tuyệt vọng như người đang hấp hối. Dạo đó ông xem ông Adam quá thật thà nên không gạn hỏi gì nhiều. Những năm về sau ông có dịp gặp ông Adam nhiều hơn. Cả hai đều có chân trong hội Masonic Order.
Trong khi chờ đợi, Horace nghĩ tiếp rằng, ông Adam không thể làm điều gì xấu vì ông ta không thiết tha với cái gì cả. Phải những người thật ham danh lợi mới có thể làm những điều bất chánh được.
Ông nghe tiếng chân ông Adam về ngoài cổng trước. Chú Lee cũng nghe nên vội bước ra. Chú báo cho chủ biết: "Có ông cảnh sát trưởng đang đợi trong nhà", rồi đi xuống bếp tiếp tục rửa chén đĩa khua rổn rảng.
Ông Adam bước vào tươi cười bắt tay khách:
- Chào anh Horace. Có chuyện gì trục trặc hả?
- Nghề của tôi thì luôn luôn có chuyện trục trặc rồi. À, anh Adam, người đàn bà dạo đó vẫn còn là vợ anh chứ?
Ông Adam ngượng ngùng đáp:
- Vâng, mà có chuyện gì vậy?
- Bà ấy tự vẫn chết hồi hôm.
Nét mặt ông Adam nhăn lại. Hai mắt ông như phồng lên và ngấn lệ. Ông cố giữ cho miệng mình đừng mếu nhưng thất bại, ông úp mặt vào hai bàn tay rấm rứt khóc và nghẹn ngào thốt lên: "Ôi, người vợ đáng thương của anh!"
Ông Quinn ngồi im lặng để mặc cho ông Adam bộc lộ hết xúc cảm của mình. Một lát sau, ông Adam ngẩng đầu lên nói:
- Xin lỗi anh Horace nhé!
Chú Lee từ dưới nhà bếp đi lên, trao chiếc khăn mặt ẩm ướt vào tay ông Adam. Ông cầm lên chậm nước mắt rồi trao lại cho chú Lee.
Với nét mặt hổ thẹn, ông Adam nói:
- Tôi không ngờ xảy ra chuyện đó. Tôi biết tính sao bây giờ? Tôi sẽ lãnh việc chôn cất nàng được chứ?
- Không, - ông Horace nói. - Trừ khi ông muốn tình nguyện nhận lãnh, chứ tôi đến đây không với mục đích đó.
Ông rút trong túi một tờ giấy đã xếp cẩn thận chìa ra:
- Bà ấy viết di chúc để lại tất cả gia tài của bà cho Aron, con trai anh.
Ông Adam đọc mấy hàng chữ và tiếp tục nhìn sững vào tờ giấy như muốn nhìn xuyên qua bên kia và nói:
- Nó không hề biết... bà ấy là mẹ nó.
- Anh không nói cho nó biết sao?
- Không.
- Trời ơi! - Ông cảnh sát trưởng kêu lên.
Ông Adam nói bằng giọng thật đứng đắn:
- Tôi tin rằng nó không muốn nhận thứ gì của bà ấy đâu. Chúng ta nên xé bỏ tờ di chúc này và xem như không hề có thì hơn.
- Tôi e rằng không được. - Ông Quinn nói. - Bà ấy có gửi nữ trang ở ngân hàng. Tôi cũng đã tới ngân hàng. Khỏi cần đợi lệnh tòa án. Xem như không dính dáng gì cả.
Ông không nói với ông Adam về việc ông nghĩ có thể còn có nhiều hình ảnh và sổ ghi địa chỉ giống với loại mà ông đã tìm thấy tại bàn giấy của bà Kate và đã bí mật thiêu hủy hết.
- À. Cụ Bob đã cho phép tôi mở chiếc hộp đó ra. Có trên một trăm ngàn Mĩ kim dưới hình thức những tờ chứng chỉ có thể đổi thành vàng. Số tiền đã bó sẵn thành từng bó, ngoài ra còn có một cuốn giấy khác. Đó là tờ chứng thư hôn thú.
Ông Adam dựa ngửa trên ghế. Vẻ hững hờ xa vắng lại tái hiện trên nét mặt của ông, đó là dấu hiệu tách biệt ông với thế giới chung quanh. Ông hỏi:
- Theo anh nghĩ thì tôi phải làm gì bây giờ?
Cảnh sát trưởng Quinn nói:
- Tôi chỉ có thể nói với anh những gì tôi phải làm. Tôi cần gặp cậu con ông ngay bây giờ. Tôi phải nói tất cả cho nó biết. À, nó bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Mười bảy.
- Nó đã trưởng thành. Sẽ có lúc nó dùng đến số tiền đó.
- Tôi không hiểu tại sao bà ấy lại lập di chúc cho Aron?
- Có trời mà hiểu bà ấy.
- Vâng. Tôi sẽ làm những gì anh bảo. Anh còn ngồi lại với tôi một lát nữa chứ?
- Dĩ nhiên là phải vậy.
- Chú Lee ơi! - Ông Adam gọi. - Bảo Aron lên đây tôi cần gặp nó ngay. Nó đã về nhà rồi chứ?
Chú Lee bước lên ngưỡng cửa. Cặp môi của chú nặng nề mím chặt giây lát rồi mới mở ra được:
- Dạ chưa.
- Còn Cal đâu?
- Cậu ấy đang ở trong phòng. - Chú Lee trả lời.
- Được rồi. Gọi nó lên đây. Nó hiểu chuyện này được.
Nét mặt Cal lại đầy vẻ mệt mỏi, hai vai xệ xuống một cách kiệt lực. Ông Adam hỏi:
- Con có biết Aron đâu không?
- Dạ không. Con không biết. - Cal đáp.
- Sáng nay nó không có mặt trong bữa điểm tâm. Vậy nó đi đâu?
- Làm sao con biết được? Con đâu phải là người theo giữ anh con?[1]
[1] Câu này tương tự lời của Ca-in trả lời Đức Chúa Trời khi Ngài hỏi về Abel mà Ngài biết rõ đã bị Ca-in giết chết vì lòng ganh tị. Ca-in và Abel là con trai của ông Adam và bà Eva trong sách Sáng Thế Kí của Thánh Kinh. Có lẽ J. Steinbeck cố ý so sánh với hai anh em đó trong Thánh Kinh. (chú thích của dịch giả)
Ông Adam cúi gầm mặt xuống. Trong mắt ông một tia sáng xanh lóe lên một cách kì lạ. Ông gượng gạo nói:
- Có lẽ nó đã trở lại trường đại học.
Đôi mắt ông có vẻ nặng nề và ông nghĩ thầm như trong chiêm bao:
- Con có nghĩ rằng Aron đã trở lại trường đại học không?
Cảnh sát trưởng Quinn đứng lên nói:
- Những việc gì cần làm tôi sẽ làm sau. Anh đang bị xúc đông mạnh, cần nghỉ ngơi cho khỏe nghe Adam.
Ông Adam ngẩng mặt nhìn lên nói:
- Xúc động mạnh. Ồ, đúng vậy. Cảm ơn Geeorge. Cảm ơn anh rất nhiều.
- Sao anh gọi là George?
-Cảm ơn anh rất nhiều. - Ông Adam lặp lại.
Khi viên cảnh sát trưởng đã ra khỏi nhà, Cal trở về phòng riêng. Cậu ta ngồi ở bàn giấy chống cùi chỏ lên bàn, hai tay ôm ghì cái đầu đang đau nhức của mình. Đến nhà bà Kate đã không mang lại cho cậu chút an ủi nào vì hành động trả thù của cậu không đem lại một thắng lợi nào. Ra khỏi nhà bà Kate cậu đã chạm phải phản ứng của người anh đang nức nở khóc và Aron đã đấm cậu một cú như búa tạ làm cậu ngã nhào. Aron đã đứng trên người cậu trong bóng tối. Nhưng đột nhiên anh quay mặt vừa bỏ chạy vừa khóc như một cậu bé đau khổ.
Hôm thứ sáu, Cal đã đi lang thang suốt ngày. Tối hôm đó cậu ta nhờ người quen ở một sòng bài mua giùm một phần tư chai rượu whisky vì cậu ta còn vị thành niên không được phép mua.
Cal tới con hẻm phía sau nhà của Abbott ngồi tréo ngoải giữa đất, dù bị phản ứng mãnh liệt và nôn mửa, cậu ta cũng nốc hết số lượng rượu trên cho đến khi trời đất quay cuồng và đèn đường biến thành muôn ngàn sợi ánh sáng kì ảo. Đến rạng đông sương muối thấm lạnh làm Cal tỉnh dậy với một tâm trạng ê chề. Cậu ta lê bước về nhà như một con bọ tơi tả.
Sáng hôm sau, Cal đã phải tắm bằng nước đá và chà xát cơ thể bằng một cục đá bọt. Sự đau đớn khi chà xát bằng cục đá bọt lên da thịt lại khiến cho cậu thấy dễ chịu.
Biết rằng mình phải thú nhận tội lỗi của mình với cha và khẩn nài sự tha thứ của ông. Tuy vậy khi được gọi ra đứng giữa phòng trước mặt cảnh sát trưởng Horace Quinn và cha mình, cậu ta đâm ngoan cố ương ngạnh như một con chó cứng đầu và nỗi ghê tởm chính mình đã ngược ra chĩa vào mọi người chung quanh.
Sau đó cậu ta trở về phòng riêng. Tội lỗi mà cậu đã gây nên lại giày vò cậu dữ dội không cách nào tự cứu gỡ được.
Nghĩ đến phản ứng cuồng bạo của Aron, cậu ta muốn điên đầu. Cal biết rằng mình phải kéo Aron trở về dù có phải hi sinh chính mình đi nữa. Ý tưởng hi sinh xâm chiếm lấy cậu ta chẳng khác nào những người mang mặc cảm phạm tội thường có.
Cal bước tới bàn riêng của mình lấy gói dưới chồng khăn tay trong ngăn bàn ra. Cậu nhìn quanh phòng, lấy cái khay bằng sứ đựng ghim lại đặt lên bàn mình. Cậu ta cầm một tờ giấy bạc đưa ngay lên chính giữa chiếc khay và gấp lại thành một cái góc rồi quẹt một que diêm châm vào. Xong cậu ta bóc một tờ giấy bạc kế tiếp châm đốt.
Khi sáu tờ giấy bạc như vậy đã bị đốt cháy, chú Lee gõ cửa bước xộc vào nói:
- Tôi ngửi có mùi khét nên vào thử có gì lạ không.
Chợt thấy Cal đang làm chú kinh ngạc kêu lên:
- Ồ!
Cal vòng cánh tay che lại sợ bị ngăn cản nhưng không có gì xảy ra. Chú Lee khoanh tay lặng lẽ đứng nhìn. Cal điên cuồng đốt hết tờ giấy bạc này đến tờ giấy bạc kia cho đến khi tất cả đã cháy tiêu hết, xong cậu lấy miếng gỗ đen nhỏ đậy lên mớ tro chờ chú Lee quở trách, nhưng chú không nói gì cũng không cử động. Cuối cùng Cal lên tiếng:
- Nào, chú định nói gì tôi xin chú cứ việc nói, tôi sẵn sàng nghe, chú hãy nói đi.
- Không. Tôi không muốn nói gì hết. Nếu cậu không có gì muốn tâm sự với tôi thì tôi ngồi lại chơi một lát rồi đi ra thôi.
Chú ngồi xuống một chiếc ghế dựa, khoanh tay trước ngực chờ đợi.
Cal xoay mặt khỏi chú và nói:
- Tôi sẽ ngồi lì lâu hơn chú.
- Để thi đua chơi thì được. Nhưng nếu kéo dài từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm nọ thì ai biết được? Bộ có thể ngồi từ thế kỉ này qua thế kỉ kia sao? Không đâu Cal, cậu sẽ thua.
Một lát sau Cal cau có nói:
- Chú cứ tiếp tục thuyết giảng nữa đi.
- Tôi chẳng thuyết giảng gì cả.
- Vậy chú đinh nói gì nữa? Chú biết tôi vừa làm gì rồi và hồi hôm tôi đã uống rượu say mèm.
- Chuyện thứ nhất thì tôi đã ngờ trước, còn chuyện thứ hai thì tôi có thể ngửi thấy.
- Thật tâm tôi không thích như vậy. Tôi e rằng nếu tôi không say có lẽ tôi đã bắn vào đầu mà chết rồi.
- Cậu không nên làm như vậy. À này, Aron đi đâu?
- Anh ấy đã bỏ đi. Tôi không biết ảnh đi đâu?
- Cậu ấy không đến nỗi hèn. - Chú Lee hoang mang nói.
- Tôi biết và tôi cũng không nghĩ như vậy. Chú cũng nghĩ rằng anh ấy không làm bậy chứ?
Chú Lee hơi cáu nói:
- Một người khi muốn tự trấn an mình về một vấn đề gì thường cố lôi kéo một người bạn tin theo những gì người đó muốn cho là thật. Chẳng khác nào ta hỏi một anh bồi nhà hàng tối nay có món gì ngon không? Làm sao tôi có thể trả lời câu hỏi của cậu được?
Cal gào lên:
- Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy? Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy?
- Đừng có biến sự việc thành phức tạp. Cậu phải biết rõ tại sao mình đã hành động như vậy. Cậu đã ganh ghét Aron vì cha cậu đã làm thương tổn tự ái của cậu. Chuyện đó không có gì khó hiểu. Cậu phải nhận rằng mình hèn.
- Chính tôi cũng thắc mắc tại sao tôi lại hèn như vậy. Chú Lee, tôi không muốn làm thằng hèn. Chú làm ơn giúp tôi với.
- Đợi tôi một chút. - Chú Lee nói. - Hình như ba cậu đang gọi tôi.
Chú chạy ra khỏi phòng. Cal nghe tiếng hai người nói chuyện với nhau léo xéo một lát rồi chú Lee trở lại nói:
- Ông ấy sắp ra nhà bưu điện. Này Cal, tôi không thích cái nhìn của cha cậu chút nào. Cái nhìn của ông sững sờ thế nào ấy. Cal, tôi tưởng cần cho cậu biết: Mẹ cậu tự vẫn chết hồi hôm.
Cal hỏi:
- Thật vậy sao? Rồi cậu ta lẩm bẩm "Chắc bà bị tổn thương." Không. Tôi không muốn nói như vậy. Tôi không muốn nghĩ như vậy. Thì ra chuyện đó đã xảy ra. Tôi không muốn sự việc xảy ra như vậy.
Chú Lee gãi một chỗ ngứa trên đầu và nói:
- Việc đốt mớ tiền chắc làm cậu thấy khoái lắm phải không?
- Vâng, có lẽ vậy.
- Tự hành hạ mình như vậy cậu thấy khoái chứ? Nỗi thất vọng đã làm cho cậu thích thú lắm không?
- Kìa chú Lee! Chú hỏi gì lạ vậy?
- Vậy là cậu khá thoea mãn rồi. Cậu đang thưởng thức tình cảm bi thảm của chính cậu, một Caleb Trask độc đáo. Có bao giờ cậu nghĩ rằng mình là một thằng con trai kì cục, lúc thì bần tiện, lúc thì quảng đại một cách khó tin? Cậu đang kết hợp danh dự và bi thảm lại với nhau trong đầu vì cớ mẹ cậu phải không? Và nếu có việc gì xảy ra cho anh cậu, cậu có tìm cớ chạy tội giết người của cậu không?
Cal chậm chạp quay trở lại bàn riêng của mình. Chú Lee để ý nhìn theo như một bác sĩ đang quan sát từng phản ứng của một bệnh nhân. Rồi chú thở dài dịu giọng nói:
- Này Cal, người Mỹ chúng ta là một giống dân cứng cỏi. Chắc cậu lấy làm lạ tại sao tôi lại gộp cả mình trong đó? Có lẽ chúng ta đều là con cháu của những đám người hiếu động, phạm pháp, ồn ào nhưng cũng can đảm, tự lập và quảng đại. Nếu tổ tiên chúng ta không là những người như vậy thì họ đã ở yên tại quê hương chịu đói khổ trên mảnh đất cằn cũ kĩ.
Cal quay đầu lại nhìn chú, nét mặt đã mất hẳn vẻ căng thẳng. Chú Lee biết rằng mình đã không đến nỗi làm cho cậu con trai này điên đầu. Cal chịu nghe vì thấy rằng những lời chú Lee thẳng thắn và thành thật.
Chú Lee nói tiếp:
- Vì lý do đó mà tôi đã gộp cả tôi trong đó. Chúng ta đều thừa hưởng những đặc tính đó và không giữ được bao nhiêu từ quê hương cũ. Vì thế chúng ta can đảm cũng hơi quá và sợ hãi cũng hơi quá, chúng ta vừa dễ tính vừa hung bạo như trẻ con. Chúng ta vừa tự phụ vừa dễ cảm kích. Chúng ta vừa giàu tình cảm lại vừa thực tế... Chúng ta là những người vụ thực tế... Chúng ta thường phung phí năng lực một cách vô ích. Đó, tất cả chúng ta đều như vậy cả. Cậu cũng không khác gì.
Cal mỉm cười nói:
- Chú cứ nói nữa đi. Nói nữa đi!
- Tôi không cần nói gì thêm nữa. Tôi sẽ chấm dứt ngang đây. Tôi mong ba cậu về sớm. Tôi hơi lo cho ông ấy.
Chú lo lắng bước ra khỏi phòng. Ra tới cửa trước chú gặp ngay ông Adam đang đứng dựa tường, chiếc nón sụp xuống ngang mắt.
- Ông Adam, có chuyện gì vậy?
- Tôi cũng không biết nữa. Chỉ thấy mệt. Mệt...
Chú Lee cầm ngang cánh tay ông dìu lần ông vào tận phòng khách. Ông nặng nề ngồi phịch xuống ghế. Chú Lee giở nón ra khỏi đầu cho ông. Ông Adam chà lưng bàn tay trái vào lòng bàn tay phải. Cặp mắt ông thật kì lạ, sáng quắc nhưng bất động. Ông nói như người mộng du, chậm rãi và như vọng lại từ xa. Ông vừa xoa tay thật nhanh vừa nói:
- Lạ thật. Tôi đã khuỵu người trong nhà bưu điện. Ông Pioda đã phải giúp tôi.
- Có lá thư nào không? - Lee hỏi.
- Có. Hình như có.
Ông thò tay trái vào túi giây lát rồi rút ra nói như tạ lỗi:
- Bàn tay của tôi sao tê cứng quá! - Ông lại thò tay phải vào móc ra một tấm danh thiếp màu vàng của chính phủ.
- Hình như tôi đọc rồi. Nhưng bây giờ tôi phải đọc lại một lần nữa.
Ông đưa tấm thiệp lên trước mắt rồi buông xuống giữa đùi:
- Chú Lee, tôi cần phải có cặp kiếng mới được, dù chưa bao giờ dùng tới nó. Tôi không đọc nổi nữa. Những dòng chữ cứ nhảy múa loạn cả lên.
- Để tôi đọc cho nhé?
- Buồn cười thật. À, làm gì tôi cũng phải có một cặp kiếng mới được. Được rồi. Trong đó nói gì vậy?
Chú Lee đọc: "Thưa ba, con đã tình nguyện vào quân đội. Con khai con đã đủ mười tám tuổi. Con vẫn thường. Đừng lo nghĩ gì về con. Aron."
- Buồn cười thật. - Ông Adam nói. - Hình như tôi đã đọc rồi nhưng tôi cứ tưởng như chưa đọc.
Ông ta lại xoa hai bàn tay vào nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co