13. Ngọn trúc trăng tà
Đêm mùa hạ phủ xuống như tấm lụa đen, trùm lên vạn vật một vẻ yên lặng miên man. Tiếng ếch nhái râm ran nơi vườn ngoài như dệt thêm vào bóng tối thứ âm thanh nửa thực nửa mộng. Đom đóm lập lòe bay qua mái hiên, những chấm sáng nhỏ như ánh lửa trời rơi xuống khoảng trống im lìm, lấp lánh giữa làn sương mỏng. Gió đêm hây hẩy, mang theo mùi hoa mộc nở muộn, dìu dịu len qua rèm mỏng, thấm đẫm không gian một mùi hương vừa thanh mát vừa ngọt ngào.
Trong Song Hương đường, ánh nến hắt lên dải màn buông lửng, vẽ trên tường những vệt sáng lay động. Tiếng khóc của trẻ nhỏ bỗng thé lên, khản đặc mà réo rắt, xé toạc sự yên tĩnh của đêm tối, rơi thẳng vào trong đáy lòng người mẹ. Thiên Cảm vội vén màn đứng dậy, động tác nhẹ nhàng như sợ đánh thức người đang trở mình bên trong. Nàng ôm đứa trẻ vào lòng rồi nhanh bước sang gian bên, vừa vỗ về, vừa cưng nựng,
"Bé ngoan của mẹ, mẹ thương, mẹ thương..."
Tiếng khóc non nớt vang lên như sợi chỉ mảnh xuyên qua lớp đêm dày đặc. Ôm tấm thân mềm trong vòng tay khiến tim nàng như thắt lại. Dẫu toàn thân rã rời, nàng vẫn ôm chặt con, như sợ chỉ cần nới lỏng một chút thôi, đứa bé sẽ bị bóng tối nuốt chửng mất. Ánh nến lập loè chỉ đủ chiếu sáng tấm lưng của người mẹ, hắt bóng lên cánh cửa gỗ. Từ ngoài, giọng cô Tuyết vọng vào,
"Hậu... Hậu để lão bế hoàng tử cho. Người nghỉ thêm mới có sức mà nuôi con lâu dài..."
"Ta dỗ một lát là được, chắc Khâm trở mình không thấy mẹ nên khóc thôi. Cô cứ đi nghỉ đi!" Thiên Cảm khẽ khàng, vùi mặt vào vai đứa trẻ. Nàng muốn để hơi ấm truyền đến, để con cảm nhận được sự hiện diện của nàng ở đây.
Rồi bất chợt, một vòng tay ôm lấy hai mẹ con từ đằng sau. Bàn tay quen thuộc nâng lấy cánh tay đang dần mỏi của nàng, đủ để nàng cảm thấy mình không hề đơn độc. Mùi trầm hương quen thuộc thoảng qua, hơi thở ấm áp mà chậm rãi phía sau khiến bờ vai đang gồng lên của nàng cũng dần buông lỏng. Nàng nhắm mắt lại, nghiêng nhẹ về phía ấy, nơi có chàng. Rồi nàng khe khẽ quay đầu lại, giọng thì thầm,
"Quan gia đi nghỉ tiếp đi, đừng để chút việc này làm ảnh hưởng đến chàng."
Chàng không đáp, chỉ xiết vòng tay chặt thêm một chút. Một lát sau, giọng trầm trầm khẽ cất sau lưng,
"Hai mẹ con thế này, trẫm sao ngủ cho yên?"
"Chuyện này vốn dĩ không nên để quan gia phải bận lòng."
"Con cũng là con của trẫm. Nàng nỡ không cho cha con ta được gần nhau một lát hay sao?"
Thiên Cảm khẽ xoay người thoát khỏi vòng tay chàng, lưng quay lại, giọng gằn xuống, "Quan gia!"
Chàng khẽ cười, "Khâm đã ngủ yên lại rồi. Vợ chồng ta cũng về giường thôi."
Nàng bế con đặt lại vào cũi, kéo chăn, rồi cẩn thận lấy hai chiếc gối đỗ chặn hai bên, phòng khi bé trở mình vẫn cảm nhận được lực mà không giật mình tỉnh giấc. Quan gia đứng phía sau, im lặng đỡ lấy tay nàng, kiên nhẫn chờ đến khi nàng sắp xếp đâu vào đó rồi cùng nàng quay lại giường. Vừa đi, nàng vừa nói, giọng bùi ngùi,
"Thiếp ngoài việc chăm con, ngày qua ngày cũng chỉ quanh quẩn trong hậu cung, nhìn sương lên rồi lại thấy sương xuống. Có lúc muốn san sẻ với bệ hạ, cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Thiếp vốn không có tài cán gì lớn, chỉ mong được ở phía sau, thay quan gia lo những việc vụn vặt, giữ cho nhà yên, cửa vững. Dù là việc nhỏ nhặt chẳng đáng kể, nhưng nếu có thể khiến quan gia yên lòng thêm một chút thì thiếp cũng thấy vui rồi."
"Không có nàng, trẫm sao an tâm mà lo việc nước? Nàng đã vì trẫm và con mà hao tâm khổ tứ, cũng phải giữ sức cho mình. Việc có thể nhờ, cứ giao cho vú nuôi, đừng cái gì cũng tự mình gánh lấy."
Nói hồi chàng khẽ nghiêng người, đỡ nàng nằm gọn vào bên trong, còn mình thì nằm ở mép giường, như một bức thành vững chãi bảo vệ cho nàng. Nàng chậm rãi gối đầu lên cánh tay chàng, cảm nhận từng nhịp đập trầm ổn. Hơi thở của chàng ấm áp, vương mùi đặc trưng mà chỉ chàng mới có. Bàn tay thô ráp khép lại quanh tay nàng. Thiên Cảm khẽ nhắm mắt, để mặc cho mọi ưu tư tan đi.
"Có trẫm ở đây, nàng đừng lo lắng gì cả," chàng thì thầm, giọng khẽ đến mức chỉ mình nàng nghe được.
.
Thiệu Long năm thứ ba, hoàng tử Khâm được ba tuổi, Hậu hạ sinh Nhị hoàng nữ.
Cung Thuý Hoa mới dùng xong cơm trưa, bầu trời kinh sư đang trong xanh bỗng tối sầm lại. Ánh nắng vụt tắt, người trên phố thị ngẩng đầu nhìn lên trời. Nhật thực [1]. Người ta tin rằng mặt trời tượng trưng cho đế vương, là dương khí cốt lõi của thiên hạ. Mặt trăng che khuất mặt trời, nghĩa là âm thịnh dương suy. Điều này lại trùng hợp đúng vào dịp nhị hoàng nữ ra đời không lâu, khiến những kẻ tin vào điềm báo không khỏi buông lời dị nghị.
Ngay ngày hôm sau, Khâm thiên lệnh dâng một đạo tấu sớ khẩn, đệ thẳng về cung Thánh Từ nơi Thượng hoàng đang ngự. Sớ được chuyển lên, Thượng hoàng trầm mặc không phê chuẩn, chỉ lệnh chuyển sang cung Quan Triều. Trong đại điện, Quan gia vừa xem xong tờ tấu sớ, mặt đã đỏ ửng. Không nói một lời, chàng đứng phắt dậy, nắm tờ sớ trong tay đập "rầm" một cái xuống ngự án.
"Con gái của trẫm mới sinh ra thì có thể làm gì hại đến quốc gia xã tắc, sao khanh phải khắt khe với một đứa trẻ như vậy?"
"Hoàng nữ là đích nữ do hoàng hậu thân sinh, thân thể long phượng. Nay mệnh của công chúa không hợp thiên địa, khiến âm thịnh dương suy, mặt trăng che mất mặt trời là điềm không hay. Mệnh của Nhị hoàng nữ không nên để trong cung, cần đưa ra ngoài dân gian nuôi nấng sẽ lợi cho thiên hạ. Khẩn mong bệ hạ soi xét!"
"Hỗn hào, những lời lẽ như vậy mà khanh cũng dám nói trước mặt trẫm?"
"Những gì thần nói đều là vì bệ hạ mà suy xét. Xin bệ hạ nguôi giận!"
.
Tối ấy Quan gia đến thăm Nhị hoàng nữ. Ôm lấy đứa trẻ, nhìn gương mặt non nớt đang say giấc trong vòng tay càng khiến chàng rơi vào trầm tư. Thấy được điểm khác lạ của chàng, Thiên Cảm như đoán được điều gì.
"Ngày thường, dùng bữa xong bệ hạ sẽ uống hết một bình trà, rồi ăn một miếng bánh đậu xanh. Hôm nay bệ hạ chỉ uống có một chén trà, bánh đậu cũng chẳng đoái hoài đến, chắc hẳn là nhạt mồng nhạt miệng. Bệ hạ có tâm sự gì chăng?"
Quan gia không đáp, chỉ ra hiệu cho nội quan đưa tờ tấu sớ. Nàng đón lấy, chăm chú đọc từ đầu chí cuối, không sót lấy một chữ. Vẻ mặt nàng từ hoài nghi, sang lo lắng, rồi từ lo lắng trở lại bình tĩnh. Đặt tờ sớ xuống, nàng cất lời,
"Hoàng nữ mới chào đời, lại gặp dị tượng, thiếp chẳng dám đoán chắc điều chi. Nhưng Khâm thiên lệnh đã cả gan dâng sớ, ắt không phải lời vu vơ. Con là con của thiên tử, đời này định sẵn hưởng lộc thiên hạ. Nếu được gửi nơi dân gian, thấu hiểu nỗi vui buồn của lê dân bá tánh, mai sau trưởng thành, đem lòng thương dân mà đền đáp, ấy chẳng phải là phúc cho trăm họ sao?"
Quan gia quay đầu, bắt gặp ánh mắt kiên định mà vẫn ẩn nét không đành lòng của nàng. Trong lòng chàng thoáng nỗi xót xa. Một khoảng lặng trôi qua, chỉ còn tiếng thở dài.
"Nàng... thật sự nghĩ vậy?"
"Nếu có thể khiến bệ hạ bớt ưu tư đôi phần, thì dẫu mẹ con thiếp phải xa cách, cũng chẳng đáng là gì. Vả lại, gửi con về dân gian nuôi nấng đâu phải chuyện xấu. Thiếp cũng từng từ ruộng cả, ao sâu mà khôn lớn, bên ngoài còn có nhiều điều hay con có thể học hỏi. Dăm ba bữa thiếp đến thăm con, hoặc con vào trong nội, thế là thiếp đã mãn nguyện lắm rồi."
Sau cùng, hoàng nữ được gửi về Yên Sinh để ngài Hưng Ninh nuôi nấng. Yên Sinh là phía nhà ngoại của hậu, lại có Thiện Đạo quốc mẫu nên ai nấy đều yên lòng. Chẳng bao lâu sau khi Nhị hoàng nữ về đến Yên Sinh, vào đúng ngày hai mươi lăm, mặt trời có hai quầng sáng bao quanh, vòng trong ánh vàng rực rỡ. Người trong triều đình và dân chúng đều xôn xao bàn tán, truyền tai nhau rằng đây là điềm lành.
.
Sau ba năm yên bình không phải lo lắng việc tiếp sứ nhà Nguyên mà có thể tập trung sửa sang nội trị, đến mùa hạ năm Thiệu Long thứ tư, sứ bộ nhà Nguyên gồm Lễ bộ lang trung Mạnh Giáp và Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn mang thư sang dụ. Lưỡng cung tổ chức yến tiệc tiếp đãi sứ thần tại cung Thán Tử hết sức long trọng.
Đây là dịp vui vẻ. Vua Nguyên dường như muốn lôi kéo để ta không tiếp quân cho Nam Tống. Nhà Nguyên vừa mới thống nhất thiên hạ, hiện đang bận rộn dẹp tàn dư nhà Tống, củng cố quyền lực trong triều, đương nhiêu không có tâm trạng gây hấn với Đại Việt. Vua Nguyên đồng ý mọi việc về mũ áo, lễ nhạc, phong tục của Đại Việt đều sẽ được giữ nguyên theo lệ cũ, không phải thay đổi. Đồng thời, nhà Nguyên cũng nghiêm cấm các biên tướng ở Vân Nam tự ý đem quân lấn chiếm biên giới hay quấy nhiễu dân chúng. Quan liêu sĩ thứ An Nam được yên ổn làm ăn, duy trì trật tự như trước. Trước đây Nguyên và Tống tranh chấp, nước ta luôn giữ thái độ trung lập, chỉ cần không phạm đến lãnh thổ Đại Việt, mọi chuyện đều có thể thuận hòa. Nay nhà Nguyên tạo nhiều điều kiện thuận lợi như vậy, lưỡng cung tất nhiên vui vẻ tiếp nhận.
Cũng trong dịp này, Quan gia chính thức được phong An Nam Quốc vương, đồng thời nhận ba tấm gấm Tây và sáu tấm gấm kim thục từ nhà Nguyên.
Trung thu năm ấy, Quan gia đồng thời phong Chiêu Minh làm Thái uý. Việc triều đình bỏ Tĩnh Quốc mà cân nhắc Chiêu Minh, ít nhiều khiến Tĩnh Quốc phật ý. Thực ra chuyện trong triều, nhìn bề ngoài thì tưởng Thượng hoàng hay Quan gia nắm quyền lực tối thượng, nhưng thực chất lại chẳng phải vậy. Thượng hoàng còn đó, Quan gia không thể chuyên quyền. Thái sư còn đó, Thượng hoàng chẳng thể tự quyết. Thái uý còn đó, Thái sư cũng phải kiêng dè. Triều chính rối rắm, thế lực đan xen, lưỡng cung chỉ có thể lắng nghe muôn ý kiến rồi dung hoà mọi điều. Dù có nâng người này, hạ người kia, rốt cuộc vẫn phải tìm cách bù đắp.
Quyết định bỏ Tĩnh Quốc mà chọn Chiêu Minh vốn từ ý Thái sư, song e rằng Quan gia cũng đã ngầm chấp thuận. Dẫu sao, theo danh nghĩa, Tĩnh Quốc vẫn là đích trưởng tử của Thượng hoàng; ngôi vua nay về tay Quan gia, thiên hạ khó tránh nhắc lại chuyện cũ năm Thiên Ứng Chính Bình thứ tư [3]. Bởi thế, dù Tĩnh Quốc có tài hơn người, nếu chẳng phải là cái tài đủ sức kinh bang tế thế thì cũng sẽ bị coi như "không có tài cán gì", giống như cái cách Hưng Ninh, Hưng Đạo hay Vũ Thành bị đối xử suốt bao năm qua.
Nhưng dù sao cũng là anh em chung một mẹ, cùng nhau lớn lên, Quan gia muốn an ủi nên ban cho phủ Diễm Châu hai tấm gấm kim thục vừa được sứ nhà Nguyên đem sang đợt tiếp sứ vừa rồi. Gấm kim thục vốn là loại gấm xa hoa bậc nhất thiên hạ, khởi nguồn từ đất Thục, dệt bằng tơ lụa thượng hạng xen cả sợi vàng ròng. Dưới ánh sáng, hoa văn nổi lên rực rỡ, tựa như dát nắng giữa muôn sắc mây.
Tĩnh Quốc hết mực trân trọng, viết thư tạ lễ, lời lẽ chân thành cảm động.
.
Trung thu, kinh sư mở hội linh đình. Kinh thành như khoác lên mình tấm áo lộng lẫy. Tất cả tông thất đều được ban yến. Đèn lồng đủ màu sắc treo khắp ngõ ngách của kinh sư, rực sáng như những vì sao.
Dưới ánh trăng tròn vằng vặc, yến tiệc phá cỗ được tổ chức tưng bừng, náo nhiệt. Tiếng cười nói rộn rã vang vọng khắp gian đình. Các bậc vương hầu ngày thường uy nghiêm là thế, giờ đây gương mặt ai nấy đều ẩn hiện nụ cười rạng rỡ. Tay nâng chén rượu ngọc, hô hào, chúc tụng, cùng nhau thưởng nguyệt chung vui.
Mâm cỗ Trung thu trải rộng trên một tấm lụa mềm, từng món ăn được bày biện khéo léo, hài hòa như một bức tranh sống động. Bánh dẻo trắng muốt, áo một lớp bột mỏng, bên trong là nhân hạt sen thơm ngát, dịu dàng tựa trời thu. Xung quanh là các loại mứt trái cây đủ màu sắc, mứt bí đỏ thắm, mứt gừng vàng ươm, mứt khoai lang tím, điểm xuyết thêm vài lát hồng khô thơm ngọt. Hoa quả tươi ngon được chọn lựa kỹ càng, từng miếng đào hồng phơn phớt, lê trắng nõn nà, cùng những hạt lựu đỏ chín mọng được tỉ mỉ tạc thành hình hoa sen thanh nhã.
Nữ quyến khoác trên mình những bộ y phục thêu hoa tinh xảo, sắc màu rực rỡ, lấp lánh dưới ánh đèn lồng lung linh. Trong muôn vàn sắc ấy, nổi bật nhất chính là công chúa Thiên Thụy. Nàng khoác bộ y phục mới tinh, tấm váy gấm cẩm óng a óng ánh, đai lụa thêu chỉ vàng mềm mại quấn ngang eo, phất phơ theo từng cơn gió thu nhè nhẹ.
Năm nay Thiên Thuỵ vừa tròn năm tuổi. Đêm nay cô công chúa nhỏ sẽ biểu diễn độc huyền cầm trước chư vị tông thất. Từ thuở lọt lòng, Thiên Thụy đã thông minh lanh lợi. Cung phi Vũ thị coi con như trân bảo, chẳng quản vất vả, mời về những bậc danh sư tài hoa khắp chốn nhân gian để dạy dỗ. Thiên Thuỵ bốn tuổi đã thuộc làu từng thiên trong Kinh Thi; năm tuổi đã tinh tường nhạc lý, ngón tay non mềm có thể gảy nên những khúc nhạc ngân nga.
Thiên Thụy bước lên điện ngọc, vóc dáng bé nhỏ tựa cánh sen non mới hé. Trước mặt nàng, độc huyền cầm đặt ngay ngắn trên giá, dây đàn mảnh như sợi tơ, hắt ánh sáng bạc của trăng rằm tháng Tám.
Bên dưới, tiếng xì xào vang lên đầy thích thú,
"Nhất chú hai rồi nhé, có cô con gái rượu thế này!"
"Ôi, công chúa mới ngần ấy tuổi mà đã tài năng hơn người!"
"Công chúa mới năm tuổi thôi đã thông thạo cầm kỳ thi họa rồi!"
Đôi bàn tay non mịn đặt lên dây đàn. Một thoáng lặng im, cả gian đình như nín thở. Ngón tay nhỏ nhắn khẽ búng, âm thanh ngân vang, trong vắt như giọt sương rơi trên phiến ngọc. Tiếng đàn khi nhẹ như gió thu len qua kẽ lá, khi dồn dập như sóng vỗ bờ, cuốn người nghe trôi theo từng cung bậc.
Bỗng, từ xa vọng lại tiếng trống cơm "tùng... tùng..." đệm vào trong khúc đàn. Âm trống dân dã, hòa cùng tiếng đàn trong trẻo, tạo nên một bản hòa âm vừa mộc mạc vừa lạ lùng. Giây phút ấy, dường như trăng cũng sáng hơn, gió cũng dịu hơn.
Tiếng trống mỗi lúc một gần, khiến mọi người đảo mắt tìm nơi phát ra âm thanh ấy.
.
[1] Nhật thực: Canh Thân,[Thiệu Long] năm thứ 3 [1260], (Tống Cảnh Định năm thứ 1. Nguyên Thế Tổ HốtTất Liệt 2 Trung Thống năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1 Mậu Thìn, nhật thực. Ngày 25, mặt trời có hai quầng, quầng bên trong có sắc vàng.
[2] Khâm thiên lệnh: chức quan đứng đầu Khâm thiên giám. Khâm thiên giám là cơ quan quan sát và chiêm nghiệm âm dương bói toán, các hiện tượng thiên văn, thời tiết, làm lịch, coi ngày, báo giờ để định mùa vụ cho dân, giữ đồng hồ báo canh, và giữ trọng trách tư vấn triều đình về các vấn đề địa lý và phong thủy.
[3] Thiên Ứng Chính Bình thứ 4: năm xảy ra sự kiện loạn sông Cái.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co