14. Khúc nguyệt, vần phong
Mọi ánh nhìn dồn cả về phía tiếng trống nhịp nhàng vang vọng. Từ xa, một cậu bé chừng tuổi thiếu niên bước ra, gương mặt sáng sủa, đôi mắt lanh lợi, vừa đi vừa gõ trống cơm. Nhìn kỹ thần thái cùng dung mạo ấy, chẳng ai còn ngờ vực, chính là Khánh Dư, con trai út của Thượng tướng Phó Duyệt [1] và phu nhân Thái Anh.
"Trời ơi, hoàng huynh xem kìa! Một bên là ngọc nữ gảy đàn, một bên là thiên đồng gõ trống, chẳng khác gì cảnh tiên trên trời!" Vũ Uy vương đã uống không ít rượu mận, nức nở khen ngợi.
Quan gia nghe vậy, miệng cười ha hả, tay cầm chén rượu khẽ nghiêng, đôi mắt sáng lên niềm thích thú. Chàng lại nhấp một ngụm, vẻ phấn khởi càng dâng trào,
"Há chẳng phải Khánh Dư ngày trước theo Thượng tướng đánh úp bọn Thát đó sao?"
Phó Duyệt khóe mắt ánh lên niềm kiêu hãnh, "Chỉ e con trai thần còn vụng dại, khiến thượng hoàng và quan gia chê cười..."
Quan gia bật cười, đưa mắt nhìn Khánh Dư, "Tuổi tuy còn trẻ nhưng đã lộ rõ khí phách anh hùng. Trí lược và dũng khí đều có, chẳng phụ công ông cha rèn giũa. Năm xưa cùng cha ngươi xông pha chinh chiến, trẫm vẫn chưa kịp ban thưởng... Hôm nay nhìn lại, quả thật lòng trẫm hân hoan."
Nói đoạn, Quan gia cầm lấy hũ rượu, bước đến chiếc bàn thạch nơi bày sẵn bút mực. Tay chàng nâng bút, mực đậm thấm giấy, từng nét khoan thai mà mạnh mẽ, viết nên bốn chữ: "Thiên Tử Nghĩa Nam."
Chàng giơ cao đoạn vải, cao giọng công bố, "Hôm nay ngày lành, trẫm nhận Khánh Dư làm nghĩa tử, giao cho hoàng hậu đích thân nuôi dạy."
Lời vừa dứt, trong chốc lát tất cả như bùng lên niềm vui. Người reo hò, kẻ cười rạng rỡ, tiếng chúc tụng vang lên rộn rã, tựa khúc nhạc chan hòa. Chỉ riêng Thiên Cảm, sau nụ cười khách sáo lại phảng phất nét đăm chiêu, khiến từng cử chỉ của nàng đều trở nên dè dặt.
.
Tiệc tàn, rượu cũng nhạt. Dưới vầng trăng rằm tháng tám, cây cối quanh sân phủ một lớp bạc huyền ảo, bóng hai người in dài trên nền gạch, tựa bức tranh thủy mặc, một dáng vững chãi như tùng bách, một dáng uyển chuyển tựa trúc mai. Người giận dỗi tiến về phía trước, kẻ vội vã đuổi phía sau. Nhưng chỉ ba bước chân, với khác biệt chiều cao, chàng đã kịp nắm lấy tay nàng, kéo nàng chầm chậm về phía mình,
"Hậu làm gì mà mặt nặng mày nhẹ vậy?"
"Thần thiếp không dám."
"Trẫm thì thấy nàng dám lắm!"
"Quan gia là thiên tử, làm gì đến lượt thần thiếp mở miệng có ý kiến chi."
"Rõ ràng là trong lòng có điều chẳng thuận ý."
"Thần thiếp đâu dám!"
"Miệng thì bảo không dám, nhưng lại lộ vẻ bất bình. Vậy rốt cuộc là dám hay không dám? Nói! Trẫm nghe."
Thiên Cảm nhíu mày, quay mặt đi không muốn nhìn chàng. Sau một lúc thấy thái độ chàng kiên quyết, nàng liền một mạch nói ra điều chưa vừa ý,
"Quan gia nhận con nuôi, nhưng lại chẳng nói trước với thiếp một tiếng. Quan gia có biết chuyện chị cả Bảo Huân của thiếp là vợ cũ của Phó Duyệt chăng?"
Nghe đến đây Quan gia sững người, chàng hình dung lại mấy người chị gái của nàng. Lúc bàn chuyện hôn nhân với nhà Yên Sinh, chàng từng nghe một bô lão nhắc đến mấy người con gái nhà này. Người con gái cả hơn chàng chục tuổi, từng gả chồng nhưng không hoà hợp nên bị trả về, người con gái thứ hai là con nuôi, con gái thứ ba thì không phải dòng đích, con gái thứ tư thì tình tình kì quái, cuối cùng mới chọn lấy nàng, kém chàng vài tuổi, phù hợp nhất từ tuổi tác đến tính nết.
"Ngày trước chị cả thiếp từng gả cho Phó Duyệt. Lúc chị mười tuổi đã khăn gói qua Chí Linh. Năm ấy trong triều phụ vương và Thái sư không hoà hợp, thường xuyên có nhiều điều trái ý. Phụ vương có ý hoà giải nên chủ động gả chị cả thiếp cho Phó Duyệt để tỏ lòng hoà hoãn. Nhưng cuối cùng chuyện không xuôi, chị bị trả về Yên Sinh sau một năm. Chị gái thiếp từ đó không tái giá, năm nay đã ngoài tam thập nhị rồi mà vẫn chỉ ở vậy thờ phụ mẫu thiếp."
Lúc này Quan gia mới sực nhớ lại mấy chuyện khúc mắc trong triều. Ban đầu chàng vẫn ngỡ Hưng Ninh và Hưng Đạo bất hòa với Phó Duyệt là vì mối hiềm khích từ đời ông cha, nào ngờ lại còn dính dáng đến chuyện trong nhà như thế. Thực ra, chuyện cũ năm ấy nhờ Linh Từ quốc mẫu khéo léo hoà giải mà mối hờn giữa phụ hoàng chàng cùng Khâm Minh đại vương đã phần nào nguôi ngoai. Chỉ còn khúc mắc giữa Thái sư và Yên Sinh thì vẫn còn rất sâu đậm. Năm xưa Thái sư ra tay sát hại thuộc tướng và gia binh của Khâm Minh, đến lúc nhắm mắt xuôi tay, Khâm Minh vẫn ôm mối hận trong lòng. Máu năm ấy nhuộm đỏ cả dòng sông Cái, cuộn theo từng con sóng mà loang xa đến tận chân trời. Cảnh tượng ấy, nghĩ lại thôi cũng khiến lòng người quặn thắt. Dẫu Khâm Minh có nhân từ cũng khó lòng rũ bỏ ám ảnh đã in hằn như vết dao khắc đá.
Về phần Thiên Cảm, nàng vốn thân thiết với các chị em, giờ bảo nàng nhận con trai của chồng cũ chị gái làm con nuôi trong tẩm cung, quả thực có phần lấn cấn. Dẫu Bảo Huân không để tâm, Thiên Cảm cũng chẳng khỏi suy nghĩ.
"Quân vô hí ngôn"
"Vậy bệ hạ tự mình nuôi đứa con này đi. Thần thiếp vốn là người nhỏ nhen, bận quản chuyện hậu cung, Khâm cũng đã đến tuổi sát sao học tập, dưới còn có Lâm Uyên ở xa nhà, sợ không lo toan chu đáo được cho con nuôi của bệ hạ"
"Nàng..."
Nàng quay lưng về phía khác không muốn để ý đến chàng. Chàng đang có men say trong người, thấy thái độ nàng vậy thì nổi giận, nhưng chẳng thèm trách mắng, chỉ phất tay, quay lưng rời đi.
Thiên Cảm thấy vậy không khỏi hụt hẫng. Nàng vội rướn người dõi theo bóng lưng lướt qua rồi biến mất sau hành lang điện vũ. Nàng tức đến giậm chân tại chỗ, muốn lên giọng cãi cọ thêm cho bõ tức, nhưng mặt rồng đã chẳng còn thấy đâu nữa. Rồi bỗng chốc, nghe được âm thanh "hừ" nhẹ phát ra từ nơi nào, nàng giật mình quay lưng lại.
Không biết từ khi nào, Tĩnh Quốc đang đứng tựa lưng vào cột gỗ ở trong một góc khuất, tay vẫn cầm hũ rượu gạo, ngà ngà say. Dường như Tĩnh Quốc vẫn luôn ở đó từ đầu chí cuối, lắng nghe cuộc cãi cọ của hai người. Thiên Cảm giật mình, gương mặt nhanh chóng lạnh ngắt như không còn giọt máu.
"Anh Khang..."
Nàng buông lời như xuất phát từ tiềm thức, sau mới nhận ra xưng hô của bản thân không phải lẽ. Nàng đã gả chồng, phải gọi anh trai của chồng là "bác cả", huống chi Tĩnh Quốc lại là anh trai cùng cha khác mẹ với nàng.
"Cô năm không cần lo lắng, coi như đây là bí mật giữa anh và cô đi"
Tĩnh Quốc chệnh choạng quay đầu rời đi. Thiên Cảm ở lại, lấy tay đập lồng ngực để bình tĩnh lại. Dáng vẻ phạm thượng của nàng lại bị người trong hoàng tộc nhìn thấy. May sao đó là Tĩnh Quốc, nếu đổi lại là Chiêu Minh, hoặc là Giám quan, thì có lẽ cái ghế Hoàng hậu này nàng cũng không cần phải ngồi nữa rồi.
[1] Trần Phó Duyệt: theo vài nguồn Trần Phó Duyệt là con của Trần Thủ Độ. Trong truyện Trần Phó Duyệt chỉ thuộc dòng dõi của Trần Thủ Độ, không phải con trai.
.
Sáng hôm sau, Quan gia cho một loạt Thái y đến Song Hương đường bắt mạch. Nói là bắt mạch, nhưng mấy vị ngự y kia chỉ đứng đó cho có lệ, rồi sau một tuần hương, còn chẳng động lấy một cái kim châm đã kết luận nàng bị phong tà [2] do thời kỳ ở cữ lo nghĩ cho nhị hoàng nữ khiến cơ thể suy kiệt. Còn chưa kịp hiểu rõ sự tình, tin tức nàng lâm bệnh đã truyền khắp hậu cung. Cùng lúc đó, Quan gia hạ lệnh, do sức khoẻ của Hoàng hậu yếu kém, khó lòng chăm nom nghĩa nam tận tình nên Khánh Dư sẽ do viện Đoan Trường nuôi nấng.
Thiên Cảm cầm tờ chuẩn bệnh của ngự y trong tay, cổ họng nghẹn bứ chẳng thốt nên thành lời. Hôm qua Quan gia còn nổi giận với nàng, hôm nay lại bày cách giúp nàng đưa Khánh Dư đi. Nàng vốn định không thèm để ý đến chàng, chàng lại giúp nàng việc vậy.
Chiều hôm ấy nàng cặm cụi trong vườn, tỉ mẩn hái mấy nhành cây cỏ để ướp hương cho chiếc gối chàng thường kê đầu, cũng tiện làm vườn chăm chút cây cỏ. Nàng lựa ít lá trầu bà, vài lá bưởi, một chút nhất mạt hương rồi điểm thêm đôi đoá dành dành. Cây dành dành ấy vốn do cậu Tung trồng tặng từ thuở nàng mới xa nhà. Biết nàng say mê vườn tược, cậu không quản xa xôi, mang đủ giống hoa cỏ từ quê lên kinh sư cho nàng bớt cô quạnh.
Thuở nhỏ, nàng sống nơi phố thị, dù có cậu Tuấn ở cạnh thì cậu cũng miệt mài học hành, khi thì ở võ trường, khi thì dùi mài văn sách, rảnh hơn chút thì cũng ngồi nghiền ngẫm binh thư. Nàng chẳng mấy thiết tha với thêu thùa, may vá, đàn ca; có để tâm tới sách vở cũng chỉ đọc dăm ba quyển kinh thi, nhưng chưa bao giờ thành đam mê. Thứ nàng nhớ nhất vẫn là bóng núi, lưng đồi nơi quê nhà, những ngày được tung tăng trong nắng gió. Ở chốn kinh kỳ, khuê nữ nào được phép làm những việc ấy, thế là nàng tự bày trò vun xới để khỏa lấp tháng ngày quạnh quẽ. Việc ấy đã thành thói quen lúc rảnh rang, đến giờ nàng vẫn không bỏ được cái thú vườn tược. Dù có bận rộn chuyện hậu cung, con cái, rảnh được một lúc là nàng đều tranh thủ ra ngoài vườn tưới tắm, tỉa tót.
Đang mải mê vùi đất, tóc mai rủ xuống, chiếc xẻng nhỏ đều đặn xới vào gốc cây, bất chợt có miếng bánh cốm đưa ngang ngay sát môi nàng. Cúi đầu lắc nhẹ, nàng lấy khuỷu tay hất ra,
"Ta không ăn, em để sang một bên đi."
Lạ thay, con Hồng chẳng đáp lời như mọi khi, cũng không mè nheo cho đến khi nàng chịu cắn một miếng cho xong chuyện. Lòng chợt nghi, nàng quay lại thì giật mình chạm phải dáng hình cao lớn, một thân bạch y nổi bật giữa vườn cây xanh ngát, thản nhiên cầm chiếc bánh đứng đó từ khi nào. Ánh nắng xiên chếch, chiếu ngược làm bóng chàng kéo dài trên thảm cỏ. Đôi mắt nàng hơi nheo lại, chỉ thấy gương mặt ấy lẩn khuất, khi ẩn khi hiện sau từng tia sáng chói chang, bỗng chốc khiến tim nàng như thắt lại.
Nàng hoảng hốt, vội lấy vạt áo che ngang trước mặt,
"Thần thiếp mình mẩy cáo bẩn, quan gia đừng nhìn!"
"Bỏ vạt áo xuống để trẫm xem nào."
"Cớ sao hôm nay Quan gia lại ngự giá nơi này?"
"Trẫm đợi trong tẩm cung mà chẳng thấy nàng đâu nên mới vào xem nàng bày trò gì mà lâu la thế. Cái rổ kia... định hái về chữa phong tà chăng?"
Giọng chàng vừa như bông đùa, vừa có ý châm biếm, chẳng rõ là trêu ghẹo hay ngầm nhắc khéo công lao. Nàng bỏ vạt áo xuống, để lộ gương mặt lấm tấm mồ hôi. Đôi tay vẫn cầm xẻng dính đầy bùn đất, chẳng giống bàn tay ngọc ngà của bậc mẫu nghi quốc triều.
"Thần thiếp biết mình có tội bất kính. May nhờ quan gia rộng lượng, chẳng những không trách phạt mà còn chuẩn cho ý nguyện của thần thiếp. Bởi vậy, thiếp muốn tự tay ướp hương dâng lên quan gia, mong người dễ bề an giấc. Nào ngờ việc còn chưa kịp xong, bệ hạ đã ngự giá tận vườn mà bắt gặp thế này"
"Biết sai, làm việc chuộc lỗi vậy là phải lắm. Cứ làm tiếp đi, trẫm qua bên phương đình kia ngồi chơi xơi nước cho mát mẻ."
Thấy người kia ung dung nho nhã, còn mình thì lấm len bùn đất, nàng lại nảy ý xấu xa. Thiên Cảm bất ngờ giậm mạnh một cái lên chân chàng, rồi giả bộ hốt hoảng, hai tay vừa đập vừa phủi loạn xạ như muốn xua đuổi thứ gì đó.
"Ôi... Quan gia giẫm phải ổ kiến lửa rồi, thần thiếp hộ giá!"
Chàng giật mình, cứ tưởng thật, lập tức nhấc chân né sang một bên, dáng vẻ hốt hoảng. Nàng nhân cơ hội ấy áp sát, đôi tay lấm lem đất cát vội vàng phủi phủi, đến khi cả bùn đất đều dính đầy trên vạt áo của chàng thì mới chịu dừng. Nàng cười khẽ, nghiêng đầu nói,
"À... không phải kiến lửa, thiếp hoa mắt nhìn nhầm. Hoá ra chỉ có vài con kiến đen thôi. Quan gia cứ thong thả ngồi đây mà xơi nước, thần thiếp cáo lui về tẩm cung, kịp sấy lá làm túi thơm dâng bệ hạ."
Đến khi chàng kịp nhận ra, nàng đã xách rổ đi khuất về phía lối ra, muốn gọi lại cũng không còn kịp nữa.
[2] Phong tà: không phải là một bệnh cụ thể mà là thật ngữ trong y học cổ truyền để chỉ các chứng bệnh gây bởi tà khí khác như hàn (lạnh), thử (nóng), thấp (ẩm thấp).
.
Tối hôm ấy, Quan gia gọi Thiên Cảm hầu ngự trì, xem như chuộc lỗi đã làm bẩn bạch bào lúc ban chiều. Nàng không một lời biện bạch, vui vẻ nghe lệnh. Còn tự tay đun thêm nồi nước lá để chàng tắm rửa cho thơm tho.
Trong làn hơi nước bảng lảng, mùi cỏ cây thoang thoảng, bóng hai người in xuống mặt nước, ấm áp lạ thường. Nàng cầm sơ mướp, khẽ kì cọ đằng sau lưng chàng, lực tay nhẹ nhàng, nhưng vừa đủ để chàng cảm thấy, dễ chịu.
"Trẫm nhận con nuôi, lại trực tiếp chỉ định nàng nuôi nấng, đáng lẽ nên nói một câu với nàng. Chuyện vừa rồi là trẫm chưa chu đáo," chàng bỗng dưng cất lời phá tan im lặng giữa cả hai.
Nàng đáp, "Thiếp là hoàng hậu không thể vì chuyện riêng mà thoái thác. Thần thiếp cũng chưa phải."
Chàng khẽ nghiêng người về phía nàng, hơi thở ấm áp lướt qua vai, "Hậu cũng biết nghĩ cho trẫm rồi đó."
Nàng mỉm cười, khẽ đáp, "Thiếp lúc nào mà chẳng lo lắng cho quan gia."
Nghe vậy, chàng thoáng vẻ suy tư, nghĩ ngợi chuyện xảy ra mấy năm qua. Ba năm nay, nếu nàng không vướng chuyện bầu bí, thì hết thảy tâm sức đều dồn cho việc nhà gần xa. Ngay cả ngoại thích họ Lý, lễ lạt lớn nhỏ cũng do nàng sắp đặt chu toàn. Chuyện ăn uống, ngủ nghỉ của chàng, nàng chưa từng để chàng phải bận lòng. Từ thư đồng hầu hạ, ngự trù nấu nướng, đến cả người chải tóc mỗi sáng... không việc gì mà nàng không để tâm, đặt sức.
Chàng khẽ gật đầu, thở ra một tiếng, "Ừ... cũng phải."
Rồi nàng vòng tay qua người chàng, đặt nhẹ tay lên lồng ngực rộng, tựa đầu vào lưng chàng, thủ thỉ, "Nhưng thiếp trộm nghĩ, để Khánh Dư cho Ngọc Lan nuôi phải lắm. Ngọc Lan chỉ có mỗi Quỳnh Trâm, nay Khánh Dư sang bên viện Đoan Trường cũng khiến nàng ấy vui vẻ hơn phần nào."
Chàng bật cười, "Hậu còn lo lắng cho phi tần hậu cung, hay là trẫm nạp thêm vài người để nàng bận rộn hơn chút, khỏi phải ra vườn đuổi kiến nữa?"
"Lời quan gia nói vừa khéo đúng ý thiếp. Thiếp cũng định nạp cho bệ hạ vài cung phi cho vui nhà vui cửa. Vừa hay, quan gia thích đàn bà thế nào để thiếp tìm cho người?"
Nghe đến đây, chàng quay hẳn lại, bắt lấy tay nàng nắm thật chặt, kéo nàng sát vào người. Ánh mắt trầm ấm, hơi thở gần như chạm vào tai nàng, "Hậu nỡ sao?"
"Thần thiếp chẳng muốn mang tiếng độc hậu đâu." Nàng thẳng thắn, "Thiếp không tính thì mấy ông quan sảnh hầu cung Quan Triều đã lục đục nhòm ngó rồi. Chuyện nhà của Quan gia cũng là chuyện của thiên hạ, chủ động tìm cho bệ hạ vài vị vừa ý, thiếp còn có thể dăm hôm ghé tới chuyện trò. Như vậy cũng tốt hơn là để mấy ông quan đem con gái dâng lên. Mấy vị kiều nữ thế gia, thần thiếp hầu không nổi."
Ánh mắt chàng dịu đi, "Hậu nói vậy cũng hợp lý lắm. Vậy tìm cho trẫm mấy vị đi, hợp ý nàng là được. Ý nàng cũng là ý trẫm."
"Thần thiếp tuân mệnh"
Đoạn, bẫng đi một hồi, nàng như có chuyện cần bày tỏ,
"Thiếp định sau đợt này sẽ đưa Khâm về Yên Sinh nửa tuần trăng. Khâm đã gần năm tuổi, thế mà vẫn chưa một lần về quê thắp nén hương cho ông ngoại. Với lại hôm nọ anh Tung đưa Lâm Uyên lên kinh, thiếp còn chưa kịp ôm ấp cho ấm tay thì con bé đã phải rời đi. Thiếp nhung nhớ con bé mãi. Quan gia liệu có chuẩn cho thiếp không?"
Quan gia nghĩ ngợi một hồi rồi cất tiếng, "Trẫm cũng muốn thăm thú Yên Sinh. Mọi ngày đều là đạo huynh [3] và thiền sư Tiêu Dao vào nội, trẫm chưa có cơ hội cùng hai người đàm đạo bên ngoài cửa thành. Nay mẹ con nàng đã muốn về Yên Sinh, sao thiếu được trẫm"
Thiên Cảm khựng lại, trong thoáng chốc sững người. Bao năm chung sống, nàng đã hiểu chàng nhiều điều, hiểu được lòng chàng hiếu thảo, cũng hết mực nhân nghĩa. Nhưng nàng chưa từng nghĩ tới chuyện Quan gia sẽ muốn về quê nàng.
Nàng khẽ dè dặt thưa, "Thiếp e rằng... bách quan trong triều sẽ có ý kiến chăng?"
"Ngự sử đại phu Phụ Trần còn muốn khuyên trẫm sớm ngày về Yên Sinh, thì lẽ nào lại có kẻ ngăn cản."
Nghe vậy, lòng Thiên Cảm phần nào lắng xuống, nhưng mối lo vẫn nặng trĩu. Xa giá của Quan gia về Yên Sinh há phải việc nhỏ. Nàng chỉ e những kẻ vốn chẳng thuận mắt nhà nàng, thấy thánh ân rủ xuống lại sinh đố kỵ, bày mưu tính kế, gieo điều xấu xa.
Như cảm nhận được nỗi lo âu của nàng, chàng khẽ nắm tay nàng, "Trẫm nào phải người không phân biệt được đạo lý. Cây còn nhớ cội, nước còn tìm nguồn, con cháu lại há quên tổ tông. Đạo Nho dạy chữ hiếu là gốc, thiên hạ có yên ổn từ đó mà sinh. Trẫm về Yên Sinh, chẳng phải chỉ để làm đẹp lòng nhà nàng, mà là nối dài mạch ân nghĩa, để muôn dân soi thấy đạo làm người."
Ngoài vườn, cơn gió đêm khẽ lay cành lá, đưa hương mộc dìu dịu tràn vào gian phòng tĩnh lặng. Thiên Cảm ngồi kề bên, nghe lời chàng mà lòng dâng lên niềm ấm áp, tựa suối ngọt thấm vào tâm can.
[3] Đạo huynh: Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen3h.Co